Đề Xuất 3/2023 # Câu Đối Có Giai Thoại Sự Tích Và Thơ Đối Đáp Việt Nam # Top 11 Like | Ngayhoimuanhagiagoc.com

Đề Xuất 3/2023 # Câu Đối Có Giai Thoại Sự Tích Và Thơ Đối Đáp Việt Nam # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Câu Đối Có Giai Thoại Sự Tích Và Thơ Đối Đáp Việt Nam mới nhất trên website Ngayhoimuanhagiagoc.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Đàm Thận Huy hiệu là Mặc Trai, tự là Mặc Hiên Tứ, thụy là Trung Hiến, người làng Hương Mạc (còn gọi là làng Me), huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông làm quan đến chức Tán trị công thần Lễ bộ Thượng thư, Tú Lâm Cục kiêm Hàn Lâm Viện Thị Độc trưởng Hàn Lâm Viện Sư, Thiếu bảo Nhập Thị Kinh Diên tước Lâm Xuyên Bá. Năm 1525, vua Chiêu Tông bị Đăng Dung bắt. Đàm Thận Huy đã tuẫn tiết ở vùng Yên Thế, Thương Hạ (Bắc Giang).

Một hôm, trời mưa to nên đã đến giờ tan học mà các học trò vẫn phải nán lại chưa thể về được, nhân đó Đàm Thận Huy ra vế đối cho các học trò.

Vế ra: 雨無鈐鎖能留客 Vũ vô kiềm tỏa, năng lưu khách (Mưa, dù không xích không khóa, cũng có thể giữ chân khách ở lại) vế đối khác: Phước hữu diên trường tự thiện căn (Nguyễn Sư Giao). Vế đối khác: Phong bất cử sừ nại khiết sơn (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Ý vế đối là gió không phải cuốc bừa mà làm mòn cả núi. Vế đối lấy ý từ bài hát “Biển nỗi nhớ và em” lời thơ Hữu Thỉnh nhạc Phú Quang.

Lần khác, Đàm Thận Huy lại ra vế đối với một lớp học trò khác:

Vế ra: Thư là sách, sách để trên án thư Một học sinh đối: Kiếm là gươm, gươm treo vào giá kiếm

Lê Quý Đôn thuở nhỏ tên là Lê Danh Phương, quê ở làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ (nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Một lần, Lê Danh Phương cùng các bạn thiếu niên thường ra cái ao rộng trước cổng làng để tắm. Bỗng có một vị quan lớn đi qua; có ý hỏi đường đến thăm nhà quan Thượng Thư Lê Phú Thứ. Cậu bé Lê Danh Phương thản nhiên đứng dạng hai chân, dang hai tay ra để cản đường. Rồi cậu nói: “Đố ông biết chữ gì đây? Nếu biết, cháu sẽ đưa ông về nhà, còn nếu không thì đợi đấy!” Vị quan lớn rất khó chịu và không muốn trả lời… Lê Danh Phương liền giải thích: “Chữ Thái (太), thế mà cũng không biết!”… Cuối cùng, vị quan lớn cũng tìm đến được nhà bạn. Ông rất ngạc nhiên khi thấy cậu bé trần truồng hồi nãy, bây giờ lại đang ngồi im trên cái ghế đẩu ở trong vườn nhà quan Thượng. Khi nghe vị quan bạn thuật lại chuyện với một thái độ bực dọc, quan Thượng thư Lê Phú Thứ cảm thấy rất ngượng ngùng, xấu hổ với bạn; lập tức gọi Lê Danh Phương vào nhà để mắng, rồi ra điều kiện: cậu phải làm ngay một bài thơ với đầu đề “Rắn đầu biếng học” để xin lỗi cha và bác; nếu không làm được thì sẽ bị đánh đòn. Chỉ một lát sau, Lê Danh Phương đã viết xong bài thơ và thoát được đòn roi của cha.

Một hôm, một vị quan bên Liêu Xá đến thăm ông Lê Trọng Thứ. Vị quan có nghe tiếng cậu bé con quan Thượng Lê rất hay chữ, muốn trực tiếp thử tài. Nể tình, ông Lê Trọng Thứ cho gọi Lê Quý Đôn tới.

Ông khách nói: “Ta nghe cháu còn bé mà đã hay chữ, nhà cháu gần ngã ba sông, vậy ta ra vế đối là: Tam xuyên (三川)!”

Vế đối giản dị mà hóc búa, chữ tam (三) có ba nét sổ ngang nhưng dựng lên, thành ba nét sổ đứng và là chữ xuyên(川). “Tam xuyên” (三川) lại có nghĩa “ba con sông”. Lê Quý Đôn chưa đáp ngay mà cứ trân trân nhìn ông khách có mang cặp kính. Ông khách rất vui vì tìm được vế đối rất hiểm, liền hỏi: “Sao, có đối được không, cháu bé?”

Sinh thời Lê Quý Đôn nổi tiếng là người thông thái, đọc và hiểu không biết bao nhiêu sách vở thời bấy giờ. Ông thi đỗ Khôi nguyên. Lẽ thường, tuổi trẻ thông minh đĩnh ngộ, đỗ đạt sớm thường hay mắc tính kiêu ngạo. Thời trẻ, Lê Quý Đôn cũng không tránh khỏi điều ấy. Chuyện kể, sau khi thi đỗ, ông liền cho treo ngay trước ngõ tấm biển với hàng chữ: “Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn” (Nghĩa là: Ai không hiểu chữ gì thì hãy đến mà hỏi). Lần thân phụ ông qua đời, người đến viếng rất đông. Trong số đó có một cụ già mà Lê Quý Đôn không quen. Cụ tự giới thiệu lai lịch: Cháu còn nhỏ, chứ lão là bạn thân với cha cháu từ xưa. Nhưng vì nhà nghèo, đường xa, lại tuổi già sức yếu nên ít đi lại thăm hỏi nhau. Nay nghe tin cha cháu mất, lão đến để có câu đối viếng. Lão run tay, cháu hãy lấy giấy bút, lão đọc, nhờ cháu viết hộ. Lê Quý Đôn lấy giấy bút. Cụ bèn đọc: “chi”. Ông Đôn không biết nên viết chữ “chi” nào bởi trong tiếng Hán có nhiều chữ “chi” viết khác nhau. Ông đành cầm bút chờ cụ già đọc tiếp xem sao, cụ lại đọc “chi”. Lê Quý Đôn thấy lạ, liền hỏi: “Bẩm, “chi” nào ạ?” Cụ thở than rằng: “Đến chữ “chi” cũng không biết viết, thế mà treo bảng ngoài ngõ để cho người đến hỏi, thì sao trả lời được kia chứ?” Lê Quý Đôn ngượng chín cả người. Bây giờ cụ già mới đọc luôn hai vế đối:

Tuy bị cụ già làm cho bẽ mặt nhưng Lê Quý Đôn vẫn chưa bỏ được tính kiêu ngạo, sau đó ông đến cầu siêu cho cha ở ngôi chùa làng. Nhà sư trụ trì thấy ông thì mừng rỡ mà rằng: “Quan Bảng vừa tới, may mắn sao. Bần tăng có điều muốn nhờ quan chỉ giáo, chả là đứa tiểu đồng của bần tăng nghe người nào đó đó, về hỏi, nhưng bần tăng nghĩ không ra, nên đành theo lời quan bảng dạy “Nghi nhất tự lai vấn”. Câu đối thế này, xin quan chỉ cho:

Qua hai lần gặp cao nhân, Lê Quý Đôn đã bớt kiêu ngạo hơn nhưng cái tính tự mãn chưa thể sửa ngay được trong một sớm một chiều, ông hạ chữ “nghi nhất tự lai vấn” xuống nhưng lại viết mấy chữ: “Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn” vào cái bảng, hễ đi đâu thì cho thằng đầy tớ đi trước cầm. Một hôm qua đò, ông lái đò nhìn thấy dòng chữ trên rất khó chịu liền nói: “Tôi ra câu đối ông đối được thì để bảng này cầm đi, nếu không đối được thì đập cái bảng đi!” Lê Quý Đôn đồng ý, thời gian đối là thời gian đò qua sông. Lê Quý Đôn bảo: “Ông xuất đối đi”. Ông lái đò nhìn vào khoang thuyền, trên bếp đang nấu thịt con hôn trong nồi ba ông đọc luôn:

Gần đây có người là Diên Minh đối như sau: Chim Đa Đa đậu nhánh đa, vô vàn trú thất khéo mà lạc nhau (Vế một dùng “Đa đa” với hai nghĩa (chim Đa Đa và nhiều), đạt tiêu chuẩn của vế xướng. Vế hai với phần một: “Vô vàn/trú thất”với từ Việt là “vô vàn”, từ Hán là “trú thất” (Thất : động, lều, chỗ trú đơn giản – còn có nghĩa là mất, thất lạc); phần hai thuần Việt “khéo mà lạc nhau”. Vô vàn:(无穷多: nhiều nhiều, đọc trại ra cho dễ nghe của nguyên từ “vô vạn” là từ Hán. Do đó, câu đối của Diên Minh có thể nói là đạt yêu cầu được 90% (vế một 50% + vế hai 40%)

vế đối khác 1: Chim cô cô đáp nhà cô, đơn đơn như nhất líu lô một mình (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Theo Wikipedia, chim cô cô có 2 loại: Cô cô đầu xám (Cochoa Purpurea ) và Cô cô xanh (Cochoa viridis). Cô cô đầu xám được tìm thấy ở Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, Thái Lan, và Việt Nam. Chim Cô cô đầu xám là một loài chim màu sắc rực rỡ, thích sống yên tĩnh, nó thường hay đứng bất động một mình trong các tán cây. Chữ cô được dùng trong từ “nhà cô” có thể hiểu theo nghĩa danh từ (như cô giáo, cô gái, cô cậu…) hoặc theo nghĩa tính từ (cô thân độc mã, cô quạnh…). Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, chữ “cô” còn có nghĩa là một mình, chữ đơn cũng còn có nghĩa là một mình. Đơn đơn như nhất dùng ý nghĩa 1×1=1 để đối với 3×3=9 của vế ra. Có thể thay cụm từ “Đơn đơn như nhất” bỡi “Nhất nhất như nhất” mà vế đối không thay đổi ý nghĩa. Vế đối tả một con chim cô cô đậu một mình trên một ngôi nhà cô độc (hoặc ngôi nhà của cô giáo “hay cô gái, bà cô” chỉ ở một mình)

vế đối khác 2: Biển mười mười cấp anh mười, thập thập đẳng bách sướng cười trăm vui (Thiền Long) (“Con ba ba” là danh từ chung chỉ con vật thuộc loài ba ba. “Nồi ba” cũng là danh từ chung; Phần đầu vế đối: “Biển mười mười” là danh từ chung chỉ biển số đăng ký cho các xe có số thứ tự 1010. Trên thực tế Biển số 1010 được gọi theo các cách: “một không một không” hoặc “mười mười” hoặc “một nghìn không trăm mười”; “Anh mười” chỉ chung người anh thứ 10; Phần hai vế đối (số hán việt) : thập = 10; bách = 100; thập thập đẳng bách: 10X10=100, phần thuần việt “sướng cười trăm vui” : diễn tả trạng thái đạt niềm vui lớn “trăm vui” vì biển số đẹp, chữ “trăm” lặp lại nghĩa chữ “bách” đối chữ “chín” lặp lại nghĩa chữ “cửu”)

vế đối khác 3: Đường hai hai qua nước hai, nhị nhị thành tứ đúng bài tư duy (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Đường 22 là quốc lộ Xuyên Á từ Tây Ninh qua Cam pu chia là nước thứ hai sau Việt Nam)

vế đối khác 4: Mười mười đúng cả vừa mười. Thập thập như bách đúng rồi trăm nguyên. (Nguyễn Sư Giao)

Vua Quang Trung tên thật là Nguyễn Huệ, khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm. Dưới quyền của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc, ông được phong làm Long Nhương tướng quân. Khi đem quân ra Thăng Long lật nhào họ Trịnh, Nguyễn Huệ tỏ ý tôn phò nhà Lê. Cùng với thuộc tướng là Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vào điện Vạn Thọ tiếp kiến vua Lê. Lê Hiển Tông mời Nguyễn Huệ ngồi ở sập bên giường ngự mà hỏi thăm yên ủi, Nguyễn Hữu Chỉnh mối lái nên nhà vua ưng lời gả Ngọc Hân công chúa và nhờ ông này dò ý Nguyên soái Nguyễn Huệ, Chỉnh bèn thay mặt nhà vua mời Nguyễn Huệ vào triều kiến diện.

Lê Ngọc Hân còn gọi bà là Bà Chúa Tiên khi bà ở Phú Xuân vì dinh phủ lập ở chùa Kim Tiên. Lúc vua cha và Nguyễn Huệ nói truyện, bà đứng sau bức bình phong, nghe tiếng Nguyễn Huệ ngân như chuông, lời lẽ quang minh chính đại. Đến khi thấy Nguyễn Huệ mắt phượng mày tằm, ánh nhìn như chớp, tướng mạo phi phàm thì trong lòng sinh ra cảm phục. Bà bước ra thi lễ và xin ra một vế đối và nói: “Nếu Chúa công đối được ấy là Chúa công đã trao lễ vật vậy”. Nguyễn Huệ nhận lời, Ngọc Hân công chúa đã chuyển nguy thành an, chuyển thế bị động thành chủ động. Đang là kẻ bị ép duyên, Ngọc Hân công chúa trở thành chủ động tuyển phò mã. Nguyễn Huệ đối: Một mai mai một anh hùng

Nguyễn Huệ tự cho mình là anh hùng mà không đối được với giai nhân hay sao, thành anh hùng mai một hay sao? Do nghĩ như vậy nên câu đối Nguyễn Huệ có chữ ‘anh hùng’, ‘mai một’ , và chỉ gồm hai chữ này thôi. Đây là cái mà người xưa gọi là khẩu khí, khi đối, khi làm thơ

Vế ra của công chúa Lê Ngọc Hân rất khó và sẽ khó hơn nếu khoảng thời gian đối đáp là rất ngắn ngủi trong một buổi gặp gỡ cho Vua Quang Trung, có lẽ do tình thế bắt buộc lúc đó nên tuy vế đối của vua Quang Trung chưa chuẩn nhưng công chúa Lê Ngọc Hân cũng buộc phải chấp nhận. Năm 2014, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đưa ra hai vế đối khác là:

Vế đối khác 4: Học sinh Sinh học thực tập (Đỗ Đình Bao)(Học sinh là người học tập tại các trường lớp có đào tạo quy củ, thường ở cấp độ tiểu học và trung học. Ở cấp độ cao học, đại học, cao đẳng gọi là sinh viên. Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một hoặc nhiều ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của họ. Sinh học là một môn khoa học về sự sống, tập trung nghiên cứu các cá thể sống, mối quan hệ giữa chúng với nhau và với môi trường. Nó miêu tả những đặc điểm và tập tính của sinh vật, cách thức các cá thể và loài tồn tại…vế đối nghĩa là Học sinh môn Sinh học đi thực tập)

Phan Thúc Tllphực còn có tên là Phan Dưỡng Hạo, Phan Sư Mạnh, hiệu là Hành Quí, Cẩm Đình, Dưỡng Hạo Hiên, quê ở làng Vân Tụ, huyện Đông Thành, nay thuộc xã Khánh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Phan Thúc Trực đọc nhiều sách và làu thông kinh sử, nức tiếng hay chữ, từng thi đậu Đầu xứ (năm 16 tuổi) và nhiều khoa Tú tài, nên được Hội Văn của huyện Đông Thành tôn tặng đôi câu đối:

Nghĩa là:

Một lần thi đậu Cử nhân thiên hạ đã có người như vậy Mười khoa thi đều trúng thế gian chưa từng có ai

Tương truyền, thời ông dạy học ở làng Nguyệt Viên, tổng Từ Minh, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Làng này có tục các cô gái vừa kéo vải vừa hát đối đáp với các chàng trai trong đêm. Đôi khi có cả những nhà nho gà cho các bên hát. Một hôm gặp ông đồ xứ Nghệ, các cô bèn ra một vế đối để thử tài:

Vế ra thoạt đầu thấy có vẻ đơn giản, nhưng khi phân tích rõ mới thấy tính hóc búa tiềm ẩn. Ở chỗ điểm chung của một địa danh, một lứa tuổi và một con số. Mà địa danh thì có là có hoặc không có là thua, con người cũng chỉ có vài lứa tuổi nhất định. Phải đến gần 200 năm sau, có người là Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh mới tìm ra đáp án cho vế xuất của các cô gái. Khi đọc đến giai thoại trên, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh rất thích. Dù công việc mùa vụ cực kỳ bận rộn gần giống như đang lo hậu cần cho một trận đánh giặc, nhưng nhân vật này vẫn bị vế ra làm phân tâm. Một vế ra tuyệt hay, trong tình thế đối đáp trực tiếp thì quả thật là khó cho cụ Phan tìm ra vế đối ngay lúc ấy được. Nhưng rồi khi có thời gian gián tiếp hơn, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đã tìm được đáp án trong lúc chợt nhớ về xã Nhơn Thọ là quê hương của mình.

Nghe tin ông mất, vua Tự Ðức phái Tổng đốc Nghệ An mang phẩm vật tới tang quyến truy điệu với bốn chữ “Học cao hạnh thuần” (nghĩa là “Học vấn đã cao thâm mà đức hạnh lại thuần hậu”) và truy phong cho ông hàm Chánh ngũ phẩm. Một vị túc nho ở trong huyện Yên Thành đã khóc ông với một đôi câu đối rất ai oán:

Có một lần, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng về xã Liên Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An để “nói chuyện” với Thám hoa Phan Thúc Trực. Sau đó, trong Hội thảo KH về cụ Thám cũng có một số người nhắc chuyện này. Thậm chí một báo cáo khoa học còn viết: “Vừa qua, qua nhà ngoại cảm Bích Hằng, cụ Thám có đọc cho một đôi câu đối, bảo hãy khắc vào ngôi đền thờ dân làng và con cháu họ Phan sắp làm, rằng:

Lê Thị Miên, còn được gọi là Yến Phi, biệt biệu Hồng Y liệt nữ; là vợ ba của Cai Vàng. Quê bà ở thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Nguyễn Văn Thịnh tức Cai Tổng Vàng (còn gọi là Cai Vàng), người xã Vân Sơn, huyện Phượng Nhỡn, Kinh Bắc (nay thuộc xóm Kẻn, thôn Vân Sơn, xã Phương Sơn, huyện Lục Nam, Bắc Giang). Năm 1862 Cai Vàng khởi binh chống lại vua Tự Đức, thời đó trong nước lan truyền câu ca: “Trên trời có ông sao dài, ở vùng Kinh Bắc có Cai Tổng Vàng”. Một lần, Cai Vàng mở hội vật để tuyển người khoẻ mạnh xung vào nghĩa quân của mình. Có một đô vật nhỏ nhắn, khôi ngô tuấn tú, đã vật ngã nhiều đô vật sĩ nổi tiếng, sắp chiếm giải nhất, thì keo vật cuối cùng mái tóc của “đô” này bị xổ tung, hiện nguyên hình là một giai nhân. Cai Vàng đích thân ông thẩm vấn. Cô gái “đô vật” khai tên Lê Thị Miên, tự Yến Phi, con một ông đồ ở thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Cai Vàng nói cô là con thầy đồ ắt phải biết chữ bèn ra câu đối: Cô Miên ngủ một mình

Vì đêm qua cô bị nhốt một mình ở trong rừng sâu, nên Cai Vàng mới nghĩ ra vế đối này. Nhưng vấn đề ở chỗ chữ “cô” là gái chưa chồng, đổi ra “cô” là cô đơn, một mình; chữ “Miên” là “dài” lại viết chữ “miên” là “ngủ” thành ra từ Hán Việt “cô miên” nghĩa nôm là “ngủ một mình”, mà tai quái ở chỗ Miên lại chính là tên của cô gái này. Tổng Thịnh nghĩ chắc chắn cô gái không thể đối nổi.

Không ngờ cô gái đối ngay: Tổng Thịnh tóm nhiều đứa

Sau này có người là Võ Văn Hoa đối thêm được 2 câu nữa:

Hoàng Mai mai nở vàng (Hoàng Mai cũng có nghĩa là mai nở vàng)

Liên Hoa đội búp sen (Liên Hoa cũng có nghĩa là đội búp sen)

Người ta kể rằng, vì cô Miên không chịu lấy chồng,, nên có lần cô bị các nho sĩ làm thơ trêu ghẹo rằng: Lạnh lùng thay, giấc cô Miên/Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u. Không chịu kém, cô Miên xướng trước một câu, thách ai đối được sẽ nhận người ấy làm chồng, nhưng rồi không một ai lên tiếng.

Sau khi Tổng Thịnh chết, mùa xuân năm 1864, Bà Ba Cai Vàng trực tiếp cầm quân đánh vào Nải Sơn (Kiến Thụy, Hải Phòng). Sau 22 ngày chiến đấu liên tục, hao quân hao tướng mà không thắng được. Xét thấy, không còn đủ sức để tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài được nữa, bà giải tán lực lượng…Theo truyền thuyết, Bà Ba Cai Vàng mai danh ẩn tích ở chùa Dặn (Đình Bảng, Bắc Ninh). Cũng có người cho rằng, bà đã vào tu tại chùa Hương nơi thôn Tứ Kỳ (nay là thôn Đại Trạch, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), với pháp danh là Đàm Giác Linh. Tại chùa này, bà đã cho dựng miếu Âm Hồn để thờ chồng (Cai Vàng). Sau khi bà mất, nhân dân lập miếu thờ, hai bên cửa miếu có đề đôi câu đối sau:

Nguyễn Khoa Vy biệt hiệu Thảo Am, quê quán ở làng An Cựu, sinh ở xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám 1945, ông tham gia khởi nghĩa ở Huế và đã sáng tác nhiều thơ ca động viên, cổ động đồng bào tích cực hưởng ứng phong trào Việt Minh chống Pháp đuổi Nhật. Đầu năm 1947 quân Pháp chiếm lại Huế, ngôi nhà của Thảo Am bị quân Pháp chiếm làm đồn. Ông cùng với nhà thơ Thúc Giạ và bạn bè lập ra Hương Bình thi xã, Ưng Bình Thúc Giạ là chủ soái, còn ông là phó soái.

Trong một cuộc thi hò giã gạo do thi xã tổ chức có nhiều vị tai to mặt lớn hay sính thơ đến dự, Nguyễn Khoa Vi đã gà cho phe nữ: Tiếng đồn anh hay chữ, Xin hỏi thử cho thông, Thánh hiền xưa đặt chữ công, Tại sao lại có cái quéo trong lòng làm chi?

Và khi bên nam không đối được, Nguyễn Khoa Vi lại gà cho họ: Người xưa đặt chữ công, Trong lòng có cái quéo, Đó là nơi lắt léo khôn khéo của thánh hiền. Em ơi em hãy chịu phiền, Phải cho có nhiều kinh nghiệm em hiểu liền chữ công.

Sinh thời, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi rất ghét bọn làm mật thám cho Tây. Ở gần nhà, ông có một tên tay sai đắc lực của Xô-nhi (Sogny), chánh mật thám Trung Kỳ, cũng làm một cái am trong vườn để thờ Phật. Ông liền ra một câu, thách các nhà thơ trong thi xã đối lại, tuy nhiên không ai đối lại được vì nó quá khó:

Bây giờ có ai lên núi Ngự Bình đi sâu thêm vài trăm thước vào khu Nội táng, nghĩa địa của gia đình Nguyễn Khoa, sẽ thấy một ngôi mộ bình thường như hàng trăm ngôi mộ khác nhưng có một chút khác thường đó là hai câu đối:

Đó chính là mộ của cụ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi

Năm 1946, sau khi nghe tin quân viễn chinh Pháp đã đánh chiếm đồn Mang Cá, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi có làm đôi câu đối sau:

Thảo Am có một bài thơ nói lái phản ánh chuyện quan hệ mờ ám giữa sư và vãi như sau:

Một lần, ban đêm đi qua đò Đập Đá, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi tức cảnh viết ra bài thơ nói lái sau:

Thảo Am Nguyễn Khoa Vi còn có 4 bài thơ nói lái nữa như sau:

1 – Bài thứ nhất:

2 – Bài thứ hai:

3 – Bài thứ ba:

vế ra: Dòng Châu lai láng đĩa Dầu Chong, Công Khó đợi chờ biết Có Không, Nhắc Bạn thêm thương người Nhạn Bắc, Trông Đời ngao ngán giữ Trời Đông (Thảo Am) vế đối:Rày Bông rạng rỡ hội Rồng Bay, Giấy Mo đền đáp thấu Gió Mây, Thương Vợ càng mong đời Thơ Vượng, Vầy Tương ngan ngát cà Vườn Tây (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Lấy ý ca dao: Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương)

Bài thơ nói lái thứ 3 của Thảo Am còn có một dị bản khác như sau: Nhắc Bạn những thương tình Nhạn Bắc, Trông Đời chỉ thấy cảnh Trời Đông, Đêm Thâu tiếng dế Đâu Thêm mãi, Công Khó chờ nhau biết Có Không!

4 – Bài thứ tư:

Thảo Am còn có bài thơ thất ngôn tứ tuyệt chơi chữ toàn phụ âm CH mang tên: “Trách người đa tình” như sau: Chạy chửa chay chân chẳng chịu chừa, chín chiều chua chát chán chê chưa, cha chài chú chóp chơi chung chạ, chẳng chính chuyên chi chớ chực chờ

vế đối: Mênh mông muôn mẫu một màu mưa, mỏi mắt miên man mãi mịt mờ, mộng mị mỏi mòn mai một một, mỹ miều may mắn mấy mà mơ (Tú Mỡ)

Thảo Am còn có 1 vế xuất khá độc đáo được viết vào dịp tết Đinh Hợi (1947) như sau:

vế ra: Tết tới túng tiền tiêu, tính toán toan tìm tay tử tế vế đối khác 1: Tuổi tăng tã tài tậu,tùng tiệm tiến tầm tướng tôn ti(Hoài Anh Võ Quang Thạch) vế đối khác 2: Cơ cùng còn cặc cụt, cù cưa cứ cắn cửa cùng căn (Câu này vận dụng 2 thành ngữ “trên răng dưới dái” và “chó cắn áo rách” đều chỉ cảnh cùng khó, đặc biệt “cửa cùng căn” cũng có hai nghĩa: “cửa cùng khổ” và “cửa với căn (nhà)”, và lại áp dụng cả cách nói lái : “cặc cụt” = “cục cặc” nếu nói theo giọng Huế (cụt=cục). vế đối khác 3: Hội hè hòng hý hửng, hỏi han hàng họ hẳn hay ho (khuyết danh) vế đối khác 4: Xuân sang xong xổ số, say sưa sắm sửa sẳn xu xài (khuyết danh) vế đối khác 5: Cô kia còn kênh kiệu, kĩ càng cố kén cậu căn cơ (khuyết danh) vế đối khác 6: Mới mẻ mừng mợ mạnh, mỹ miều mà mở mặt môn mi (khuyết danh) vế đối khác 7: Ái ân êm ấm ấy, ỡm ờ uốn éo ý yêu ai (khuyết danh) vế đối khác 8: Tết tới thêm trúng thưởng, tíu tít tân trang túi tiền tiêu (khuyết danh) vế đối khác 9: Lịch lùi lơi lợi lộc, lo lường lánh lướt lối lao lung. (Tụ Vinh – Nguyễn Sư Giao)

Nếu coi vế ra là vế tả cuộc đời một kẻ hàn nho, thì có thể tạm đối lại:

1. Bằng cuộc đời một kẻ sung túc, no đủ, có điều kiện tập bạn bè đánh bạc, tổ chức đồng bóng hay gọi cô đầu đàn hát.v.v…

(Cò quay: một trò đánh bạc; cò cưa: chơi kiểu đàn nhị, chơi không hay (xem từ điển Thanh Nghị); nếu sự cầm ca có nghĩa quá rõ, không khớp với tử tế thì có thể thay bằng cò cưa hoặc ca cơ hoặc ca công, cam ca (xem từ điển Đào Duy Anh), cầu kỳ ngoài nghĩa thông thường còn có từ đồng âm với nghĩa là cầu đảo (xem từ điển Đào Duy Anh)

2. Hoặc bằng cuộc đời một kẻ giàu có nhưng keo kiệt, sợ cảnh cháu con, khách khứa ở lâu, ăn bám:

3. Hoặc bằng cuộc đời một kẻ quyền thế, tham nhũng, lại móc ngoặc với bọn làm ăn phi pháp (loại tiêu cực mà báo chí hiện chống!)

(Có thể thay còn kết bằng còn cậy hay cố kết; quịt bằng cuỗm hay cướp; cùng cơ có thể thay bằng cùng cư (ở nơi cùng tịch, ở vào cảnh cùng khốn, theo Đào Duy Anh); kẻ cùng cư cũng có thể tạm cho là còn có nghĩa thứ hai: kẻ cùng “ở”. Có thể thay quỹ còn bằng quỹ quên hay quỹ quen; cãi bằng kế)

II. Nếu coi vế ra là vế tả cảnh tết nhất, thì có thể đối lại bằng:

1. Cảnh hội hè, đình đám:

(Có thể thay điếu bằng đến)

2. Cảnh tiệc tùng:

(Nếu nghĩ đến một buổi tiễn đưa ở nước ngoài thì cũng có thể đổi thành Tuyết tan, tàn tối tiễn…)

Nhưng đó là với nhân vật chính. Còn với tay chân nhân vật chính thì:

3. Cảnh mùa màng thời tiết:

LỤT LÊN, LO LÚA LÚT, LĂM LE LIỄU LỘI LỐI LÀM LẦY (Có thể thay lo bằng lấy; lúa bằng lạc; lăm le bằng lấm lem)

Nhưng nếu không phải bản thân người lao động mà là một ông gia đình, chủ trại.v.v… thì lại có thể:

LỤT LÊN, LO LÚA LÚT, LU LOA LA LỐI LŨ LÂU LA (Có thể thay lâu la bằng lầm lỳ; lâu la có hai nghĩa: chậm trễ và bọn bộ hạ).

III. Còn nếu coi vế ra là một tự vịnh (tự trào, tự thán) của bản thân nhà thơ Nguyễn Khoa Vy thì cũng có thể đối lại bằng cảnh tự vịnh của một nhân vật khác, ở một tình thế khác. Ví dụ:

1. Cảnh tự vịnh của một xã viên hợp tác xã, một công nhân công trường… khi gặp chuyện không may:

2. Đối với cánh đi nghiên cứu, điều tra điền dã thì:

3. Còn đối với trường hợp như tác giả mấy dòng này, một người từng bị trộm cướp hành hung, phải chống lại, thì:

(Có thể thay quơ cọc quất bằng quay quyền cán hay kiếm cách cản hoặc còn kế cản; quật bằng quét; côn quang bằng kình côn. Cánh kình côn có thể hiểu là cánh thú dữ, mà cũng có thể tạm hiểu là cánh đang giương côn lên đánh; đối với cánh côn quang cánh quang côn cũng vậy)

Những câu đối hay khác rất tốt phần điệp âm đầu nhưng tiếc thay chưa chuẩn về chữ nghĩa, cũng đưa cả vào để tham khảo :

Nguyễn Đỗ Mục, tự Trọng Hữu, bút hiệu Hì Đình Nguyễn Văn Tôi. Quê gốc của ông là làng Thư Trai, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (sau đổi là huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây; nay là huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội). Năm 1913, Đông Dương tạp chí ra đời. Ông đến cộng tác và viết đều đặn ở mục Gõ đầu trẻ, chuyên về giáo dục. Sau khi tạp chí này đình bản (ngày 15 tháng 9 năm 1919), ông viết cho tờ Trung Bắc tân văn.

Dương Bá Trạc có tên hiệu là Tuyết Huy, ông sinh tại làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Khoái Châu (nay là huyện Văn Giang), tỉnh Hưng Yên. Năm 1906, ông tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục. Năm 1907, Dương Bá Trạc bị bắt giam, ông bị kết án tù Côn Đảo. Năm 1910, Dương Bá Trạc được đưa về đất liền an trí ở hạt Long Xuyên (nay thuộc An Giang). Năm 1932-1935, ông làm chủ bút tờ Văn học tạp chí. Năm 1943, ông sang Singapore. Ở xứ người, ông luôn mong tìm một kế sách giúp nước nhà sớm được độc lập, nhưng ý nguyện chưa thành, thì Dương Bá Trạc mất.

Nguyễn Đỗ Mục và Dương Bá Trạc thường viết ra những giai thoại nhằm đả kích thực dân Pháp và tay sai, trong số đó có một câu chuyện rất hay như sau: Một anh nông dân ở làng nọ có hai vợ. Do khéo đối xử và sắp xếp việc nhà, việc cửa, nên nhìn bề ngoài người ta thấy gia đình anh tương đối thuận hòa, yên ổn. Thế nhưng, chuyện chồng chung không ai dễ chịu ai. Về mặt tâm lý, anh chồng vẫn nể sợ người vợ cả, trong khi tình cảm yêu thương thì lại nghiêng về người vợ nhỏ nhiều hơn, bởi lẽ ngoài sức trẻ trung, và chút ít nhan sắc, chị ta còn là con gái của một ông đồ hay chữ nhất vùng. Một chiều nọ, nhân buổi rảnh rỗi việc đồng áng, ba vợ chồng ngồi bàn chuyện. Nhân không khí vui vẻ, cởi mở, anh chồng đưa ra đề nghị: “Anh ta ra một câu đối, nếu ai đối được thì tối nay, anh sẽ “vô buồng” người ấy”. Cả hai bà vợ đều đồng thanh tán thành.

vế đối khác 1: Chồng tất, chồng vớ, tất hai chồng đều là chồng tất (khuyết danh) vế đối khác 2: Thầy tu, thầy chùa, tu chùa thầy cứ việc thầy tu (khuyết danh) vế đối khác 3: Em dưới, em trên, dưới trên em cùng mê em dưới (Phú Đa Nguyễn Phước An) vế đối khác 4: Con một, con đàn, một đàn con vẫn hơn con một (khuyết danh) vế đối khác 5: Chồng sau, chồng trước, sau chồng trước vẫn cứ chồng sau (giáo sư Vũ Khiêu) vế đối khác 6: Chồng chung, chồng chạ, chung chạ chồng vẫn gọi chồng chung (Ngọc Thanh) vế đối khác 7: Nhà thuê, nhà tậu, thuê tậu nhà vẫn ở nhà thuê (khuyết danh) vế đối khác 6: Chồng thôi, chồng nửa, nửa chồng cũng chồng thôi (Nguyễn Sư Giao) vế đối khác 9: CON ĐẦU CON MỘT MỘT CON CHẲNG GỌI CON ĐẦU

Câu gieo đối có 2 chỗ lắc léo :

1.Từ cả : Cách dùng từ vừa hóm hỉnh vừa lắc léo:

+ Ở đầu câu: Xác định ngôi vị (để so sánh) :

Vợ cả là vợ lớn (vợ trước).

+ Ở cuối câu : Là sự bao hàm : vợ cả xác định cả 2 đều là vợ.

2.Từ hai đứng trước cũng xác định ngôi vị để so sánh:

Vợ hai là người vợ thứ hai.

Từ hai đứng sau chỉ về số lượng : hai vợ là hai người vợ.

Trọn câu có nghĩa: VỢ CẢ + VỢ HAI = HAI VỢ (đều là vợ).

Về sự ứng đối của hai câu : Trong câu gieo thì từ cả ở trạng thái phát triển, khẳng định:

Cả là lớn:

+ Ở đầu câu từ VỢ CẢ để chỉ về người vợ trước (Cả = 1).

+ Cuối câu : Đều là vợ cả: từ cả phát triển, bao hàm: cả hai đều là vơi (Cả = 2).

Còn câu đối đáp từ đầu ở trạng thái bị phủ định, bị triệt tiêu: Đầu là trước :

+ Ở đầu câu từ Con đầu để chỉ là con trước:(Đầu = 1).

+ Cuối câu : Chẳng gọi con đầu, từ đầu bị triệt tiêu không còn gọi là con đầu nữa (Đầu = 0).

Cặp đối :

VỢ CẢ VỢ HAI HAI VỢ ĐỀU LÀ VỢ CẢ

CON ĐẦU CON MỘT MỘT CON CHẲNG GỌI CON ĐẦU

Có thể dùng 2 câu đối dí dỏm để minh họa cho sự ứng đối :

VỢ CẢ VỢ HAI HAI VỢ ĐƯỢC HƯỞNG CẢ

CON ĐẦU CON MỘT MỘT CON BỊ TIÊU ĐẦU

Thanh Tịnh tên thật là Trần Văn Ninh, năm 6 tuổi được đổi là Trần Thanh Tịnh. Các bút danh khác: Thinh Không, Pathé, Thanh Thanh, Trinh Thuần. Ông sinh tại xóm Gia Lạc, ven sông Hương thuộc làng Dương Nổ, Thừa Thiên Huế. Bút danh của ông gồm hai chữ: Thanh-Trong sáng và Tịnh-Tinh khiết. Năm 1948, ông gia nhập bộ đội. Năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam. Thanh Tịnh mất ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội. Ông có hai câu thơ từ bài thơ “Dân no thì lính cũng no” sáng tác năm 1948 trùng với câu châm ngôn thường bị hiểu nhầm là của Hồ Chí Minh: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Thanh Tịnh ngoài vai trò là 1 thi sĩ ông còn là một “cây” về tiếu lâm, về câu đố, câu đối. Người xứ Nghệ thường hay đọc:

Đến xứ Nghệ, ra Quán Hành, uống rượu gừng, nói chuyện cà riềng cà tỏi

Nhiều người lầm tưởng câu đối hóc búa ấy là của một ông đồ nào mà ít người biết là của Thanh Tịnh chợt nghĩ trong chuyến vào công tác lúc Nghệ An còn là tuyến lửa, trong quán phở ở Quán Hành, một địa điểm cách Vinh 10 km về phía bắc. Sau giải phóng Miền Nam, ông có dịp công tác trong Đồng Nai và chính ông đã tự đối lại câu đối này khi trong thời gian đó đang bị bỏ ngỏ:

Vào Đồng Nai, nhớ Kỳ Lừa, ăn thịt chó, ngồi vui tán vượn, tán hươu

Vế trên đầy những tên gia vị nghệ, hành, gừng, riềng, tỏi, của dưới đối với các tên thú nai, lừa, chó, vượn, hươu

Một thời, ở tạp chí Văn nghệ, có Nguyễn Đình làm thơ trào phúng, Nguyễn Đình Thi viết truyện ngắn, thơ trữ tình rất hăng say.

Lần khác, Thanh Tịnh ra và Xuân Thiều lại đối:

Câu đối viết cho Thi Gia Vương Trọng:

Một lần, nhà thơ Thanh Tịnh đến nhà Vương Trọng chơi, nhìn cảnh nhà thơ Vương Trọng đang vui vẻ bón cơm cho cậu con trai ba tuổi, ông bật ra vế đối:

Thời bao cấp, hàng tiêu dùng khan hiếm, thường mỗi khi có mặt hàng nào đó, phải tổ chức phân phối theo chỉ tiêu đầu người từng cơ quan. Khi về đến cơ quan, lại phải tiến hành bình bầu, nhận xét xem phân cho ai là đúng. Không bình bầu nổi thì chọn phương án “bốc thăm”, may ai nấy được. Một lần bốc thăm như thế, nhà thơ Xuân Sách và nhà văn Nguyễn Thị Như Trang cùng bốc được một chiếc màn…. đôi! Vốn bực mình về cái thói cửa quyền của cơ quan phân phối, nhân chuyện này, Thanh Tịnh buông một câu: Cái cứt gì cũng phân, mà phân thì như cứt!

vế đối: “Quan khỉ đều thích hầu nhưng hầu là tựa khỉ “ (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) (“hầu”=”khỉ”; “hầu” vừa là danh từ vừa là động từ “hầu hạ”) vế đối khác: Thứ chó gì cũng cẩu, mà cẩu thì như chó! (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Câu đối nói về thực trạng ở 1 doanh nghiệp: Một ông chủ mua xe cẩu về làm tất tần tật những việc khuân vác nặng nhẹ nên công nhân bốc vác thất nghiệp, nhưng do tay nghề người điều khiển cẩu hàng còn kém nên làm việc thường hư sự)

Câu đối chung của 2 Nhà thơ Thanh Tịnh và Chế Lan Viên:

Năm 1989, Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối: Thợ nem vác thịt đi ăn chả, chả ăn đặng chi đứng ê mặt thịt (đã đăng trong tạp chí Thời Văn số 16/17 năm 1997). Vế đối khác: Bị thịt nắn gân mò ăn chả, chả ăn nổi gì ngượng tái máu gân (Trường Văn) (Theo từ điển tiếng Việt, Bị thịt là danh từ chỉ người to lớn mà đần độn, chậm chạp. Ăn chả ngoài nghĩa đen là ăn chả còn có nghĩa bóng là quan hệ trai gái trong câu Ông ăn chả bà ăn nem) vế đối 2: Lũ yêu giả beo đến rình lừa, lừa rình bị lộ, lâm đòn chạy rớt lốt beo (Nguyễn Sư Giao)

Vế đối 3: LÍNH THỦY LỘI BỘ VỀ NẰM KHÔNG, KHÔNG NẰM YÊN THÂN DẬY QUÊ CÁI BỘ (Thiền Long)(Ở vế ra diễn tả một sự việc trong chiến tranh (lính người nhái đi bắt cóc mà không được), dùng từ hai nghĩa, sử dụng tên các con vật thuộc loài ếch nhái để chỉ người, bộ phận cơ thể người và các hành động của con người bằng các từ ghép như : “người nhái” (danh từ), “bơi ếch”(động từ), “bắt cóc”(động từ), “mắt ếch”(danh từ), trong đó có chữ “cóc” là đắt nhất vì có thêm nghĩa thứ ba là nghĩa phủ định (“cóc” là “chẳng”, “không”…Ở vế đối diễn tả một sự việc trong chiến tranh (lính thủy thua trận ) , dùng từ hai nghĩa, sử dụng các đường đi và các binh chủng cơ bản : đường “thủy”(thủy quân), đường “bộ” (lục quân) , đường “không” (không quân) ( để chỉ người, bộ phận cơ thể người và các hành động của con người bằng các từ ghép như : “lính thủy” (danh từ) đối “người nhái” (danh từ), “lội bộ”(động từ) đối “bơi ếch”(động từ), “nằm không”(động từ) đối “bắt cóc”(động từ), “cái bộ”(danh từ) đối “mắt ếch”(danh từ), trong đó có chữ “không” là đắt nhất vì có thêm nghĩa thứ ba là nghĩa phủ định (“không” cũng là “chẳng”, đối chuẩn với “cóc”)

vế đối 4: DU CÔN MÚA ĐAO RA ĐÓNG NỎ, NỎ ĐÓNG CÁI CHI ĐỨNG THỪ MẶT ĐAO (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(CÔN, ĐAO, NỎ…là một trong 18 bộ binh khí. NỎ theo tiếng gọi ở vùng Hà Tĩnh ,Bình Trị Thiên thì giống như chẳng ,không ĐÓNG NỎ đơn thuần là việc làm nỏ, Cung. Nhưng nghĩa bóng là hành động lăng nhăng mèo mỡ. “ĐỨNG THỪ MẶT ĐAO” là cử chỉ ngạc nhiên, đưa cái mặt đao ra) vế đối 5: CHÍ PHÈO LỘN LÒNG GIỮA RUỘNG ĐỊNH CÒ MỒI, MỒI CÒ KHÔNG CÓ CHÍ PHÈO ĐỨNG RỐI TƠ LÒNG (Bùi văn Thanh) vế đối 6: BÁC CÔNG NHẢY CÒ NGƯỢC NÚI THỬ LÔI GÀ, GÀ LÔI KHÔNG NỔI BÁC CÔNG ĐỨNG KIỂU LÒ CÒ (Bùi văn Thanh)(câu này có được 3 con vật: CÔNG, CÒ, GÀ cũng là loại cùng dòng họ với nhau. cái nghiệt của vế xuất là cả 3 từ NHÁI, CÓC, ẾCH không dùng chỉ cho động vật mà là chỉ cho con người (Người nhái). Từ CÓC của vế thứ hai lại có nghĩa là : KHÔNG, CHẲNG, CHẢ, ĐẾCH (Cóc bắt được ai) với nghĩa này thì khó có từ đối lại cho chỉnh được. Từ BÁC CÔNG là một danh từ chỉ tên riêng, có thể thay đổi lại từ ÔNG CÔNG là người chấp kích trong lễ tế di quan; còn từ LÒ cò không đối được với Mắt ếch, nên có thể chỉnh lại là CỔ, như vậy vế đối tạm là: ÔNG CÔNG NHẢY CÒ xuống bếp định xơi gà, gà xơi hết sạch ÔNG CÔNG ĐỨNG NGỎNG CỔ CÒ hoặc ÔNG CÔNG NHẢY CÒ ra phố định tìm GÀ (gà móng đỏ), gà (tán tỉnh) hoài chẳng được ÔNG CÔNG ĐỨNG NGỎNG CỔ CÒ) vế đối 7: LÁI TRÂU KÉO BÒ ĐẾN CHỢ ĐỂ MUA LỪA, LỪA MUA HẾT CHỢ LÁI TRÂU NGà CHỎNG VÓ BÒ (Cao Nghiêm) vế đối 8: Thằng cò huýt sáo ra đồng bẫy chim cu, cu bị kiến đốt, thằng cò chạy nhảy chân sáo (Nguyen Anh) vế đối 9: Lái lợn, máu dê vào hàng đề “cầy bꔑ, bê cầy chán chê lái lợn nằm vểnh râu dê! (Nguyen Anh) vế đối 10: Lão cáo già giả hổ đến nhà để rình lừa, lừa rình bị lộ, lão cáo già bỏ chạy xấu hổ (longkhoa17) Vế ra trên có 1 dị bản khác viết như sau: Đêm ba mươi người nhái vào bắt cóc, cóc bắt được ai, bị bắt cóc người nhái ngồi trơ mắt ếch vế đối: Sáng hai mốt lính thủy về nằm không, không nằm yên thân, cho nằm không lính thủy dậy quê điệu bộ (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)(thủy, bộ, không là 3 kiểu đường đi cơ bản, muốn di chuyển thì ta chỉ có thể đi đường thủy, đường bộ hoặc đường không)

Cũng có lần Thanh Tịnh trở thành đối tượng để châm chọc trong một đôi câu đối của một “tướng” văn nghệ sĩ báo chí nào đó không ở số 4 Lý Nam Đế (Văn nghệ quân đội) thì cũng ở số 7 Phan Đình Phùng (Báo QĐND):

Điểm lại những chặng đường đã đi qua, có vẻ như ông luôn luôn nhìn sâu vào con người mình, từ những câu chuyện quá khứ nho nhỏ, những thành công và thất bại, để rồi tỏ vẻ trầm tư và đăm chiêu, bâng khuâng tiếc nuối pha lẫn với tự hào, hãnh diện. Ông đôi khi không giấu giếm sự muộn phiền vì bất lực, khi thấy thời gian đi quá nhanh, mình đã muộn màng. Ông viết:

Sinh thời, thi sĩ Thanh Tịnh cũng thường dùng câu đối để đùa bạn, trong đó có 1 vế xuất như sau:

Câu này có 1 dị bản khác như sau: Xuân Thiều, Xuân Miễn, Xuân Sanh, Xuân tóc đỏ

Bấy giờ, ở kinh đô Thăng Long có bốn danh sĩ được gọi là: “Tràng An Tứ Hổ” gồm Nhữ Đình Hiền, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Bá Lân và Vũ Diệm cùng rủ nhau đến nhà bà Đoàn Thị Điểm để thử tài. Bà ra câu đối: Đình tiền, thiếu nữ khuyến tân lang (Trước sân, thiếu nữ mời ăn trầu). Tân lang là trầu cau, lại đồng âm (Hán) với tân lang là chàng rể mới. Tràng An Tứ Hổ đều chịu phục không nghĩ ra câu đối lại, trên đường về có người hỏi chuyện thì Tràng An Tứ Hổ giải thích rằng: “câu thách đố của Hồng Hà nữ sĩ tài tình mà lắt léo ở chỗ cô ta dùng từ ngữ đồng âm khác nghĩa. Thiếu nữ là cô gái trẻ và cũng là làn gió nhẹ. Tân lang là chàng rể mới, nhưng cũng là cây cau. Thành ra câu văn muốn hiểu “gió nhẹ vờn cây cau” hay “cô gái mừng chàng rể mới” hoặc “cô gái mời trầu cau” cũng đều đúng cả. Nếu hấp tấp đối theo một nghĩa thì chẳng bõ mua cười, bọn chúng tôi đành thoái là vì như vậy đó”.

1)- Ứng với nghĩa: Vợ trẻ khuyến dẫn chồng trước chỗ đông người (có ý khoa trương)

Câu đối lại: Người đàn ông xử đoán việc vợ chồng nơi cửa sau (Đóng cửa dạy nhau), là cao kiến hơn.

2)- Ứng với nghĩa :

Câu đối lại:

Sau hè cây nam che khuất đống muối đang phơi (Tả cảnh nhà u tối, việc làm ăn bê bối)

Có một lần, Trạng Quỳnh và Thị Điểm nhìn thấy nhau từ hai cửa sổ đối diện nhau, Đoàn Thị Điểm ngẫu hứng bèn ra một vế đối:

Song song là hai cửa sổ, hai người ngồi trong cửa sổ song song

Vế ra rất oái oăm, “song song” 12 “hai cửa sổ”. Nhiều nghĩa: “song song” 2 vừa có nghĩa sóng đôi, ngang bằng nhau, vừa có nghĩa được thông suốt (nghĩa “sóng đôi, ngang bằng nhau” đã được Việt hoá). Cùng âm: “song song” 1 – “song song” 2. Cũng lưu ý rằng, nếu ngắt nhịp giữa “ngồi” và “trong”, thì “cửa sổ song song” lại có thể hiểu theo một cách khác, là hai lần cửa, hoặc hai cửa sổ cùng nằm trên hướng nhìn (hai người không ngồi gần nhau). Bên cạnh đó, hiện tượng trùng điệp (âm hay từ) cũng được sử dụng, chỉ có 8 âm tiết được dùng để lắp đầy cho 14 âm tiết của vế đối, hai-song song-hai, song là hai và song cũng có nghĩa là song cửa. Lại gặp một vế đối quá hóc búa, Trạng Quỳnh bí quá không đối được đành giả bộ tảng lờ, đi ra chỗ khác.

Song là số từ, không và tam cũng là số từ. Song song là tính từ dạng từ láy toàn bộ, không không và tam tam cũng là tính từ dạng từ láy toàn bộ. Khi chữ song thứ nhất là số từ (hai) và chữ song thứ hai là danh từ (cửa sổ), thì tương ứng, chữ không (hoặc tam) thứ nhất là số từ (không hoặc ba) và chữ không (hoặc tam) thứ hai cũng là danh từ (không là sự trống rỗng, tam ở đây là chữ ba)). Ông Hoàng Kim Long ở Biên Hòa – Đồng Nai cũng tham gia đối 1 câu: Trùng trùng dáng nước non cao, nước trong cá lội non cao trùng trùng vế xuất: “Hai người ngồi trong hai cửa sổ song song” vế đối: Một đứa đứng cách một mương nước độc độc (khuyết danh) Có hai chữ song: Song 窓 là hai. Và chữ song 窗 là cửa sổ. Độc cũng có hai chữ : Độc 獨 là một mình. Và chữ Độc 凟 là mương nước. vế xuất: HAI NGƯỜI NGỒI SONG SONG 2 CỬA SỔ vế đối: MỘT NGỰA ĐỨNG ĐỘC NHẤT 1 CỖ XE (Trần Thị Mỹ Dung) vế đối khác: Một gạch viết nhất nhất một đường đơn (Dương Hồng Kỳ) *****************************

Một lần Trạng Quỳnh đến nhà Đoàn Thị Điểm chơi bị chó đuổi chạy rồi phải nhảy tót lên cây hồng. Đoàn Thị Điểm ra nhìn thấy rồi ra vế đối: Thằng Quỳnh ngồi trên cây cậy, dái đỏ hồng hồng và nói rằng nếu Trạng Quỳnh đối được mới đuổi chó đi mà mời vào nhà chơi. Hồng là cây hồng, quả hồng… Nhưng cây hồng cùng giống với cây cậy, Trạng Quỳnh nghĩ nát óc không ra nên phải ngồi mãi trên cây

Hậu bối Trường Văn Nguyễn Phước Thắng xin phép được đối: Cái Điểm đứng dưới nhánh bòng vú vàng cam cam (Chữ Quỳnh trong Hán tự có nghĩa là thứ Ngọc đỏ, Ngọc có thể liên tưởng đến Ngọc Hành nghĩa là dái. Chữ “bòng” có nghĩa đèo bòng khi đối với chữ cậy có nghĩa là ỷ lại, cậy nhờ. Chữ “bòng” đọc trại thành “bồng” để đối với chữ “cạy” (khi chữ “cậy” đọc trại thành “cạy”). Chữ Điểm trong Hán tự có nghĩa là cái chấm. Chấm lớn thì tròn, cho phép liên tưởng đến núm vú và vú. Cam và bòng là 2 cây cùng giống. Hồng hồng và cam cam cùng là từ láy toàn bộ đều chỉ về màu sắc. Thiết nghĩ vế ra không có dấu phảy thì độ khó cao hơn.) Vế đối khác của Vũ Trình Tường: Mụ Điểm đái dưới gốc sung, ghe chua ngái ngái (Cây sung và cây ngái cùng họ với nhau và cùng có quả ăn được. “sung – ngái” đối với “cậy – hồng”, lấy mùi vị (ngái ngái) để đối với màu sắc (hồng hồng) Vế đối khác 2: Cái Điểm lội dưới ao bèo, lồn ngứa ráy ráy (khuyết danh) Vế đối khác 3:Con Liễu ngồi dưới gốc trai, mu dày trúc trúc (Nguyễn Sư Giao) Vế đối khác 4:Lão Lý dựa sát cội đào, cu gào cúc cúc (Nguyễn Sư Giao) *****************************

Một lần giáp tết Nguyên Đán trời mưa rả rích, Đoàn Thị Điểm ngồi gói nem. Trông thấy Trạng Quỳnh đội mưa đi mua rượu về, cô bảo muốn nhắm nem thì ngồi xuống cùng gói với cô. Quỳnh trả lời: Chả thích nem, chỉ thích giò. Thị Điểm liền ra một vế đối: Trời mưa đất Thịt trơn như Mỡ, Dò đến hàng Nem, Chả muốn ăn. Câu đối cũng rất lắt léo dùng toàn chữ: Thịt, Mỡ, Dò, Nem, Chả khiến Trạng Quỳnh lại một lần nữa bị bế tắc.

Trường Văn Nguyễn Phước Thắng có đối 3 câu:

Vua giận rời Cung lẹ tựa Tên, Thương nàng lễ Giáo, Nỏ thèm trách (Nỏ là tiếng địa phương ở vùng Hà Tĩnh, Bình Trị Thiên… có nghĩa như chẳng, không) Trăng đổ hoàng Cung đẹp tựa Tiên, Thương về gốc Việt, Nỏ thèm ngủ Trăng xuống xứ Việt đẹp tựa Tiên, Câu lẫn ánh Liềm, Nỏ thèm ngủ

Cung, Tên, Tiên (roi), Việt, Thương, Giáo, Câu, Liềm, Nỏ là các loại khí giới trong bộ 18 ban binh khí vế đối khác 1: Gió ẩm bánh Mì mốc bởi Men, Cuốn lên ngọn Lá, Cam lòng chịu (Cao Nghiêm)

vế đối khác 2: Biển động trời Đen, tối tựa Đêm, Rớ vào gọng Nhá, Chài chân té (khuyết danh)

vế đối khác 3: Đất tốt Dâu Tơ mượt tựa Nhung, Sa vào chợ Vải, Len cũng mặc (Vũ Trình Tường)

vế đối khác 4: Trăng xuống đá Bi tròn giống Đĩa, Líp tới hang Sên, Cóc thèm nhảy (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Bi, Đĩa, Líp, Sên, Cóc là phụ tùng xe đạp)

vế đối khác 5: Đường tối ổ Gà đen tựa Mực, Bò tới quán Lươn, Cóc thèm vô (Vanlu)

vế đối khác 6: Thằng bạn nghe Cọp nhại như Két, Chim gặp tổ Ngỗng, Hổ thẹn lui (khuyết danh)

vế đối khác 7: Ngõ sáng nhà Qué rực như Đèn, Trâu húc cửa Trạch, Ếch nhảy ra (khuyết danh)

vế đối khác 8: Lửa xém cơm da thơm hơn hèm, men sang quán rượu do thèm uống (khuyết danh)

vế đối khác 10: Hạn nắng nhà nho khát rỉ vang, Quất vào cây bưởi cam thôi nhịn (Dương Hồng Kỳ)

*****************************

Lần khác, cô Điểm đi lên phố Mía ở Sơn Tây gặp ngay Trạng Quỳnh ở trên đó, cô lại ra vế đối: Lên phố Mía, gặp cô hàng Mật, cầm tay Kẹo lại hỏi thăm Đường. Trong câu này có 4 từ: Mía, Mật, Kẹo, Đường đều chỉ những đồ ngọt khiến Trạng Quỳnh một lần nữa lại bó tay. Ngoài ra, vế ra còn khó ở chỗ: từ Mía mới sinh ra Mật, Kẹo, Đường. Sau này, rất nhiều kỳ nhân dị sĩ đã giải đáp giúp Trạng Quỳnh, cụ thể như sau:

Trạng Quỳnh một hôm bắt gặp nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đang tắm, vừa tắm vừa ngâm thơ ca hát. Trạng ta hình như mê mệt nữ sĩ đã lâu nên lên tiếng xin tắm chung, hay ít nhất cũng xin nữ sĩ cho chiêm ngưỡng thân hình kiều diễm để có hứng nay mai lên đường đi sứ sang Tàu. Nữ sĩ không chút gì hờn giận lại đọc lên câu đối:

Tục truyền ông Trạng nhà ta trước câu đối thách thức của Đoàn nữ sĩ đã lúng túng không ít để rồi ông đành tạm ngâm ngay một câu đáp, chứ lâu quá không khéo bà Đoàn tắm xong thì hết chuyện.

Theo nghiên cứu của các học giả hiện đại thì câu đáp Trạng Quỳnh là: Bẩy Xanh la thất thanh.

Một số vế đối khác đã được nghiên cứu chỉnh lý và hoàn thiện:

vế đối 1: TIM ĐỎ KẾT TÂM HỒNG

Đỏ hồng là nhiệt huyết và tình yêu, tình yêu có tâm huyết! Trắng với đỏ là hai màu duy nhất ứng đối để diễn đạt cho sức sống, tình yêu và tấm lòng với nhau. Còn Bì và Tâm mang ý nghĩa Ngoại thể – Nội tâm, ứng đối nhau nó gắn liền sát sao được điều cần đáp lại của câu gieo. Đối với hàng sĩ sự hiện diện của tim đỏ trong trường hợp này đủ nói lên những gì tốt đẹp nhất với nhau, xua tan bao trăn trở, xóa được mọi gián cách giữa hai người. Với ý nghĩa ấy nhưng để đi sâu hơn vào nội dung câu đáp về động cơ của khách và ứng đối cả sự tượng thanh của câu gieo.

Theo Hán Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn, Thiều Chửu : Tuynh là màu đỏ. (Tuynh 騂 Màu đỏ đậm. Đỏ màu cam) Trọn câu có nghĩa: “Tim đỏ nhịp tim đỏ”. Nếu trong “Da trắng vỗ bì bạch” từ vỗ chỉ là vay mượn làm chiếc cầu nối cho hai cách gọi của một vấn đề, sự tượng thanh của nó chỉ là tượng thanh. (về nghĩa đen thì da không tự vỗ được), còn “tim đỏ nhịp tâm huynh” thì nhịp là hoạt động thực tế của tim, sự tượng thanh của nó gần như một diễn tả sinh động cái rộn ràng của tim. Trong y học tâm đồ là đồ hình biểu diễn hoạt động sinh học của tim. Còn về văn học ta có thể hình dung tâm tuynh là âm thanh biểu hiện ra về mặt hoạt động tâm lý của nó. Ngoài ra cặp đối còn có cái khó là: Hai câu không thể giao hòa trực tiếp với nhau được. Bởi lẽ: Về nguyên tắc đối đáp câu gieo là gốc nó đóng vai trò chủ thể chi phối nội dung cặp đối, gán ghép hai câu vào nhau một cách hời hợt cái hạ tầng tượng thanh tượng hình trần trụi của “da trắng vỗ bì bạch” sẽ biến “nhịp tâm tuynh” thành ra vì nhục dục, hạ thấp ý nghĩa của tình yêu, phản văn hóa.

Cũng theo Hán Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn và Thiều Chửu: Tý là vành mắt (tý 眥 Vành mắt. Bâu áo) Trọn câu có nghĩa: “Mi đỏ trét mi đỏ”. Về sự tượng thanh thì phối hợp với cặp đối chỉnh trên ta có: BÌ BẠCH là thanh trầm, TÝ TUYNH là thanh bổng, TÂM TUYNH là thanh trung. Hai câu tương phản có chuyển nghĩa khá trào phúng là: Người nước da trắng có thể ung dung “vỗ bì bạch” mà khoe da của mình trắng. Còn người ăn diện mi đỏ phải trét. Khi thi thố với nhau: Người khoe da trắng càng vỗ “bì bạch” thì người diện mi đỏ càng phải trét ! Trét “tý tuynh” : trét lia lịa…Hai câu còn có nghĩa bóng là: cái gì bản thân mình tự có tốt hơn là cái vay mượn và sự tô vẽ: nó phù hợp với nội dung câu nói đầy chân lý của người xưa: “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.

Huyền 玄 Màu đen. Sâu xa; màu nhiệm). Tình yêu không trong sáng sẽ ám ảnh tâm hồn mình – khắc chế lẫn nhau – làm đen tối cuộc tình. Cuộc tình này cũng như những ai tâm hồn không trong sáng trong lĩnh vực tình yêu thì: “Sự tương phản hai màu cho ta hình ảnh; đối tượng da càng trắng, thể hình càng tươi thì tim của họ sẽ càng đen.” Sự khêu gợi xác thịt càng mạnh, dục tình lên cao ám cái tâm càng mạnh, cái huyền bị ức chế mất hết sự sâu xa mầu nhiệm, làm cho tâm chỉ còn lại một màu đen thăm thẳm: con người trở nên u tối không còn khôn ngoan nhạy bén: Ông Quỳnh đã từng ăn rau “vô tâm” nhìn được mặt vua, nhưng lối sống vô tâm buông thả không đưa ông đến được với ý nghĩa đích thực của cuộc nhân sinh: Ông phải sụp đổ cả Đức lẫn Trí trước cái ” da trắng … bì bạch” của bà Điểm./.

Phảng 舫 Thuyền (Phất 芾 Nhỏ lá nhỏ) Trọn câu có nghĩ: Thuyền nhỏ gió thuyền nhỏ. Phảng phất 彷彿 Hơi giống, thấy không rõ ràng. Gió phảng phất: Gió thoảng qua một cách nhẹ nhàng (gió nhỏ).

Vì mao cũng là lông như bì và da. Lông đen đối với da trắng, điểm đối với vỗ, mao hồng đối với bì bạch. Đặc biệt tôi dùng ngay chính tên cô Điểm làm động từ điểm để ghẹo cô. Giá như cô ấy còn sống thì cũng đến chết thôi với Hà mỗ này. hay là: ” Lông đen điểm mao tuyền ” Mao tuyền còn có nghĩa là suối lông, suối lông đối với sóng nước vỗ bì bạch làn da trắng muốt hồng hào của cô Điểm là chết tươi ông cụ nhà tôi rồi, hay là : ” Lông đen điểm mao hắc “? Mao hắc đối với bì bạch thì đối được ý chỉ hiềm nỗi hắc và bạch đều vần trắc cả. Trong câu đối nhiều khi người ta bỏ qua yếu tố trắc bằng nếu ý đối được hay. Nhưng nếu ta gọi: ” Lông đen điểm hắc mao ” ? Liệu cô Điểm đã chịu ngả bàn đèn chưa? Mao đối với bạch chữ cuối thành ra là bạch mao. Cô Điểm thành ra là Bạch Mao Nữ rồi, không khéo bị cô ta cho mấy cái guốc vào mặt. Vì dám tỉa cô ấy là lão bà bà, trên rừng xanh núi đỏ. Bạch Mao Nữ là một nhân vật trong truyện cổ dân gian của Tàu

Vì bướm cũng là điệp từ Hán, hồ – vàng chỉ màu sắc. hồ còn nghĩa là bột hồ màu trắng. Bướm vàng đối với da trắng, động từ xuyên đối với động từ vỗ, điệp hồ đối với bì bạch

Vế đối 3: ” Suối vàng ngập hoàng tuyền “

Suối vàng cũng có nghĩa là hoàng tuyền, màu vàng cũng gọi là hoàng tiếng Hán, suối và tuyền cũng là hai danh từ chỉ khác tiếng Hán đọc ngược lại mà thôi. Suối vàng đối với da trắng, ngập đối với vỗ, hoàng tuyền đối với bì bạch.

Tơ là sợi, hồng là non. Tơ hồng đối với da trắng, mọc đối với vỗ, sợi non đối với bì bạch.

Bướm hồng chữ hán gọi là hồ điệp, còn chi lan hồ điệp là loại hoa lan hình con bướm hồng. Bướm hồng mà nhuốm động mùi thơm của hoa chi lan hay hoa lan thì làm gì mà chả ngây ngất lòng người quân tử kia chứ?

Vì mây rồng nghĩa la vân long. Mây rồng đối với da trắng. Nếu ta nhìn lên trời sẽ thấy nhiều khi những đám mây hình con rồng trắng như bông, đã làm rung chuyển cả hoàng cung của cô Điểm. Động từ rung đối với động từ vổ, Con vân long cũng có nghĩa con rồng mây trắng đang ngọ nguậy vờn lên cơ thể trắng muốt của nàng Hằng Nga Đoàn Thị Điểm. Vân long đối với bì bạch.

Vế đối 7: ” Lông rồng chen mao long “ hay: Lông rồng điểm mao long

Lông rồng tiếng Hán là mao long tương tự như da trắng nghĩa là bì bạch. Lông rồng có thể đen hay trắng đối với da trắng. Chen đối với vỗ. Mao long có thể nâu, đen, trắng, hồng v. v…tùy ý đối bới bì bạch. Lông rồng mọc xồm xoàm tua tủa rất dài tiếng hán gọi là mao long. Lông rồng là thứ của qúy hiếm chỉ những bộ râu của các hoàng đế vua chúa ngày xưa. Nghe nói nếu được một nhúm lông hay râu vua có thể giải độc cho các hoàng hậu vốn được gọi là chim phụng, chim mái bên cạnh phượng hoàng là con đực chỉ nhà vua. Vì vua hay ăn các thứ sâm nhung tổ yến, những chất béo bổ nên râu vua cũng là thứ rất qúy giá để đốt thành tro than làm một phương thuốc giải độc cho các hoàng hậu? Vấn đề vế đối của cô Đoàn Thị Điểm trở nên rắc rối bởi chữ ” bì bạch “. Chữ bì bạch hiểu theo tiếng Hán cũng đúng là da trắng thật. Nhưng nếu ta bỏ qua phần Hán tự đi thì bì bạch trở nên thuần Việt như phì phạch, phò phạch, bì bõm, lạch bạch, bành bạch v. v…

Hồng Hà nghĩa là sông Hồng Hà hay chính là biệt danh nàng Đoàn Thị Điểm. Cống Quỳnh là một cái cống ở Quỳnh Lôi hay cũng là biệt danh Trạng Quỳnh. Hồng Hà và Cống Quỳnh hiểu là danh từ chung hay danh từ riêng cũng được. Hiềm nỗi không phải là tính từ hay trạng từ, phó từ gì cả. Nhưng nếu lấy ý để trêu ghẹo đối với da trắng vỗ bì bạch cũng có thể chấp nhận được. Vì đây là câu tiểu đối chứ không phải hoàn toàn là đối thơ.

Vế đối 9: ” Suối tiên tuôn cam lồ “ hay là: Đào nguyên tứa cam lồ

Suối tiên đối với làn da trắng lạch đào nguyên của cô Điểm, cam lồ tự ưá ra mà thôi từ nguồn suối vô tận cũng phải nhờ vào khả năng của ông Cống Quỳnh nữa. Nguồn suối tiên cũng có nghĩa nước cam lồ chảy ra nhờ Phật Bà Quan Thế Âm dùng cành dương liễu vảy ra từ một cái hồ lô

Nón da chỉ cái mũ các anh lính thú ngày xưa đôi trên đầu có cái chóp hồng hay đỏ tiá, lưng phải đeo bị đạn nặng rất là khổ sở, không kém ông Cống Quỳnh chầu trực trước cửa buồng tắm nhà cô Điểm

Vế đối 11: ” Điểm hoa thách quỳnh chơi “

Hoa quỳnh có những điểm để mà lôi kéo hấp dẫn. Điểm còn nghĩa là tên cô Điểm. Quỳnh còn nghĩa tên Trạng Quỳnh. Bông hoa quỳnh có thời kỳ nở nhụy điểm hương lôi kéo quyến rũ, phải nhờ vào sự nhanh trí lanh lợi của anh chàng Cống Quỳnh mới có thể nhận ra được. Điểm hoa đối da trắng, vì trên hoa quỳnh có những điểm nhụy hương lấm tấm. Thách đối với vỗ còn quỳnh chơi tức là hoa quỳnh được lôi kéo vào giấc mộng thiên thai, ái ân, giao hoà, hoan phối, vui chơi… Còn có nghĩa là thách đối. Đối được thiếp mời chàng vào cùng tắm cho vui. Bây giờ ta lại quay trở lại vế đối nửa Việt nửa Hán có động từ ở giữa.

Sen hồng tiếng hán cũng có nghĩa bạch liên hay sen trắng. Sen hồng đối với da trắng, động từ điểm đối với động từ vỗ, bạch liên đối với bì bạch. Vẫn lấy tên cô Điểm làm động từ điểm để ghẹo cô. Câu này ý bông sen hồng thơm còn có mùi vị của hoa sen trắng

5 vế đối của Trường Văn Nguyễn Phước Thắng:

Có thể đặt vế đối tương ứng vào ngữ cảnh ra đời của vế ra: Mặc dù chết mê chết mệt trước nữ sĩ tài sắc vẹn toàn lại là con nhà danh gia vọng tộc; nhưng nhiều lần thất thủ trước những tuyệt chiêu câu đối thượng thừa của nữ sĩ nên tình yêu của Trạng ta ngày càng cháy bỏng. Tuy nhiên gặp cơ hội ngàn vàng này, Trạng ta còn giả vờ làm cao, khích rằng người đẹp tuy da trắng nhưng có thể… thịt đen mà cứ kiêu kỳ, gây khó cho Trạng làm gì?! Thôi thì xin hãy chiều theo ý Trạng…)

vế đối phụ 2: Cỏ đen mọc lang lê (Đối với bên da trắng đang vỗ bì bạch có đám cỏ màu đen bò mọc dài lan man) vế đối phụ 3: Cá đen giãy lý lô hoặc Chép đen giãy lý lô (Đối với bên da trắng đang vỗ bì bạch có con cá chép màu đen đang giãy (nhảy, nảy) lý la lý lắc nghe lý lô lý la) vế đối phụ 4: Chim đen hót liêu lô (Đối với bên da trắng đang vỗ bì bạch có con chim nhỏ màu đen đang hót liêu lô như trêu chọc người)

(Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh: “la” có nghĩa là một thứ lụa sưa, ta gọi là “là”, “lang” có nghĩa là loài cỏ mọc nơi đất thấp có thể cho trâu ngựa ăn được, “lý” có nghĩa là cá chép, “liêu” có nghĩa là chim sâu; “lê” và “lô” đều có nghĩa là sắc màu đen. “la lê la liệt”, “lý lô lý la” là từ láy bốn, như: áo quần bày la lê la liệt, trẻ nói lý lô lý la. Trong Từ điển Tiếng Việt NXB Thanh Niên năm 2000: “lang” như trong lang thang, ngủ lang, “lê” kéo dài, như lê bước, lê chân.)

Vế đối của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh và Thi Sĩ Dương Hồng Kỳ: ” Quạ đen kêu ô ô ” (2 nhân vật này ở cách xa nhau về địa lý nhưng cùng đưa ra 1 vế đối vào những thời điểm khác nhau)

Phân tích độ khó vế ra: Nghĩa từ hán việt: da = bì (danh từ ); trắng = bạch (tính từ). Từ láy âm vừa là từ tượng thanh : bì bạch.”Vỗ” là động từ.

Phân tích vế đối: Nghĩa từ hán việt : Quạ = ô (danh từ ); đen = ô (tính từ). Từ láy âm vừa là từ tượng thanh : ô ô. “Kêu” là động từ. Trên thực tế tiếng kêu của quạ có biên độ âm từ ” ô…. ô…. ” đến “ơ…. ơ….’,tùy người nghe cảm nhận.

Vế đáp của Hoài Anh võ Quang Thạch: Ngỗng Hồng thở hộc Hà (“Hộc hà” là từ láy tượng thanh phát ra từ động từ ‘thở’, thở hộc hà hộc hệch âm sắc nhỏ nhưng lại thoải mái chân thành. “Hộc hà” là phó từ bổ trợ cho động từ thở. Trong hán tự ‘Hộc’ là Ngỗng trời hay còn gọi là “thiên nga” hoặc là chim Hồng hộc hay hồng hạc, “hà” là màu hồng đỏ. Chim Hộc lúc cao hứng thì tiếng thở nghe hộc hà hộc hệch) Ngỗng còn là danh từ chỉ cái ngỗng, cái cổ ngỗng. Trong vế đối có biệt hiệu của tác giả vế xuất,”Hồng Hà nữ sĩ”

Vế đối khác: Chị đen buồn tỉ ti (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Tỉ là chị, “ti” theo hán tự là chỉ màu đen, “tỉ ti” là từ láy tượng thanh mô phỏng tiếng buồn khóc nho nhỏ kéo dài. trở lại hoàn cảnh của vế xuất, thì nghĩa của vế đối là “chị đen” vì ấm ức mình bị mạo phạm nên khóc tỉ ti.

Về vế xuất này nhà văn – đại tá Phạm Thanh Cải cũng có 1 vế đáp, đã đưa vào mục số 43 trang Câu đối về các danh nhân Đương đại#Câu đối của Đại tá Nhà văn Phạm Thanh Cải

Hồ Xuân Hương có bài thơ Đường Luật dùng từ láy như sau:

Hồ Xuân Hương với anh người Tàu:

Vì tò mò, mến mộ, có một chú Khách mò đến Cổ Nguyệt Đường định thưởng nguyệt xem hoa…Nếu dễ dãi thì hái lấy chơi, mà lắm gai quá thì…ngó nghiêng, nghiêng ngó rồi về (mất gì của ngộ?). Không ngờ bị Xuân Hương chặn cửa bằng câu đối:

vế đối: Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối, trong đó sử dụng tên 4 triều đại của Việt Nam là: Đinh, Triệu, Lý, Mạc: Tóc cắt đầu Đinh, vai nghinh lá Triệu, bụng liệu lẽ Lý, mộc Mạc mộc mà Vế ra có gieo vần: Hán – bán, Đường – Lương; vế đối tương ứng: Đinh – nghinh, Triệu – liệu. Riêng ở cặp Triệu – liệu, thay vì gieo vần lưng xa chuyển sang gieo vần lưng gần. Như trong lục bát biến thể, trong câu tám, thay vì gieo vần chữ thứ sáu thì chuyển gieo ở chữ thứ tư. Chẳng hạn trong ca dao: Tiếc thay hoa nở làm CHI, Hoa nở lỡ THÌ lại phải mùa đông.= vế đối khác 1: Ðầu để da Trần, đuôi đeo cành Lý, miệng hí hố Hồ, bò Lê bò la (Đồng Văn – câu này tả một con Khỉ sử dụng tên 4 triều đại Việt Nam là: Trần, Lý, Hồ, Lê) vế đối khác 2: Ðầu đội nón Âu, cổ đeo chuyền Mỹ, bụng tròn ung Úc, phương Phi phỏng phì (khuyết danh – sử dụng tên 4 châu lục: Âu, Mĩ, Úc, Phi) vế đối khác 3: Miệng nói lời Càn, sự sinh địa Chấn, lấn ca lấn Cấn, từ Tốn từ ly (Bùi Tiến – sử dụng 4 phương vị trong bát quái gồm: Càn, Chấn, Cấn, Tốn) vế đối khác 4: Lưỡi nếm táo TÀU, thân vào nhà THỔ, da phình thô LỖ, lễ MỄ lê mê (khuyết danh – sử dụng tên 4 quốc gia theo nhiều cách gọi: Tàu là Trung Quốc, Thổ là Thổ Nhĩ Kỳ, Lỗ là tên của nước Rumania gọi tắt chữ đầu theo phiên âm Hán-Việt là Lỗ Mã Ni, Mễ tức Mễ Tây Ca là phiên âm cũ của nước Mĩ)

Vào ngày giáp tết, một tên Tây đoan (thuế vụ) dẫn lính về làng lùng bắt rượu lậu. Thấy trong đình làng tụ tập đông người, hắn liền chỉ gậy ba-toong hách dịch hỏi, dân tụ tập làm gì. Một cụ già trả lời rằng đang họp nhau làm câu đối. Mắt tên Tây sáng lên như…đèn pha. Nhìn thấy giữa sân có một cây mít, hắn liền đọc to: Đình tiền định lập vô tri thụ

Các cụ không ngờ thằng Tây thạo cả chữ Hán. Thằng Tây cười đắc chí nhưng đang bận công vụ phải đi, nó hẹn một canh giờ sau trở lại nghe vế đối. Các cụ cũng nhức óc, bí tịt, không biết đối ra sao. Câu đối của thằng Tây nghĩa là: “Trước sân sừng sững một cây không biết (Oái ăm thay hắn lại chơi chữ “cây mít” nó gọi là “cây không biết”, tiếng việt còn có nghĩa là Mít Đặc có ý khinh dân ta dốt)

Một lúc sau thằng Tây quay trở lại, bỗng ở phía sau sân đình một con gà sống (trống) cất tiếng gáy lảnh lót. Một cụ già sáng trí, đứng lên dõng dạc đọc vế đối: Bích hậu tường minh bất tử kê (Nghĩa là sau tường rõ ràng nghe tiếng gáy của con gà bất tử. Cụ chơi chữ thật cừ. “Bất tử kê” là con gà sống (không chết), đối lại với “vô tri thụ” (cây không biết). Thật chỉnh cả ý lẫn lời.

Vế đối khác: Quốc trung, tồn tại bất nhân cẩu (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)(Nghĩa là trong nước nhà đang chứa bọn chó không phải người. “bất nhân cẩu” là con chó không phải người (tất nhiên đã là chó thì không phải người, giống như con gà còn sống đang gáy nghĩa là con gà không chết vậy. Quốc gia nào chẳng nuôi chó, ở Việt Nam làng nào mà chẳng có chó. Mượn chuyện thực tế có chó để chửi quân tây thực dân lúc ấy)

Thời Pháp thuộc để mỉa mai thói học đòi, các nhà Nho đã dùng từ ngữ “nửa ta, nửa Tây” trong 1 bài thơ nói về “bồi Tây, me Tây” sau đây:

Thời Pháp thuộc, còn có 1 vế ra mỗi câu đều độn tiếng Pháp như sau: Sao toa vội gót trở Ăng-phoong, bạc bẽo làm chi hỡi đi-đoòng, chắp cánh bay cao lòng cá-nác, dừng chân đứng lại phận cô-soong, sụt sùi moa những nhìn la-pốt, năn nỉ sừ ơi nỗi lạc-gioòng, một tiếng ô-voa không kể xiết, xa người xa cả cán ba-toong (Ăng-phoong (en France): về Pháp; đi-đoòng (dis-donc): vậy, hãy nói đi; cá-nác (canard): con vịt; cô-soong (cochon): con lợn; la-pốt (la poche): cái túi, cái ví; lạc-gioòng (l’argent): tiền bạc; ô-voa (au revoir): tạm biệt; ba-toong (bâton): cây ba-toong)

vế đối:(Tiếng Anh) Thôi thế vì “Ay-mễ-rí-khềnh”, Dở dang đâu nữa lúc cùng “phênh”, bại binh về nước sầu “đề-khẹch”, mất mộng, lìa đôi thảm “chít-kềnh”, than thở “ai” còn mong “hit_lớp”, cò kè “du” gắng tặng “đai-mênh”, xót xa “gút-bái” sao mà khó, chàng chạy, chạy tiền, chạy cả “ghênh” (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)(Bài thơ nói về những cô gái lấy lính Mỹ chỉ với mục đích tiền bạc thời chiến tranh Việt-Mỹ, “Ay-mễ-rí-khềnh” = American = người Mỹ, “phênh” = fun = vui,”đề-khẹch”=the cat=con mèo (ý châm biếm : mèo mả gà đồng),”chít-kềnh”=chicken=con gà;”ai”= I = tôi; “hít-lớp”= his love = tình chàng ấy; “du”=you=anh, chàng (ngôi số 2); “đai-mênh”= diamond= kim cương, hột xoàn; “gút-bái”= good bye= tạm biệt;”ghênh”=gun=súng (hai nghĩa giống ý cây ba-toong của vế ra; các câu có sử dụng từ láy)

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ở Tây Bắc, vào một buổi xế chiều có một cán bộ đi họp trên Bộ… Đang đi trong đầu ông chợt nảy ra 2 vế đối như sau:

1 – Câu thứ nhất:

2 – Câu thứ hai:

Năm 1964, không lực Hoa Kỳ leo thang đánh phá miền Bắc. Vì bị bom đạn ngày đêm bắn phá nên buộc lòng quân ta phải đi qua dải Trường Sơn mượn đường nước bạn Lào, bấy giờ có loại thuốc lá Trường Sơn thịnh hành nhất nhưng cũng không đủ để cung cấp kịp cho quân giải phóng nên các chiến sĩ nghiền thuốc đành tạm sài thuốc Lào. Nhân đó có viên sĩ quan đặc công là Hoàng Văn Xưởng (1951 – 1972) đã lấy cảm hứng sáng tạo để ra một vế đối như sau:

Thời kỳ kháng chiến chống Mĩ, bởi cuộc chiến tranh kéo dài quá khiến nhiều người chán ngán không biết bao giờ mới đến ngày thống nhất non sông để được về với gia đình, có nhân vật tên là Trần Dần (có thuyết khác nói là Hồ Đệ, lại có thuyết nữa nói là của Đỗ Thông Minh) tức cảnh sáng tác ra một vế đối bằng thơ thất ngôn tứ tuyệt nói lái:

Một dị bản khác của bài thơ nói lái trên, đưa luôn cả vào để tham khảo: Kháng Chiến thôi rồi Khiến Chán ôi, Chiến Khu để lúa Chú Khiên rồi, Thi Đua chi nữa Thua Đi quách, Anh Hùng chỉ tổ Ung Hành thôi!

Câu đối xuất hiện lúc không lực Hoa Kỳ bắn phá ở Miền Bắc lần thứ nhất:

Câu đối xuất hiện khi không lực Hoa Kỳ bắn phá ở Miền Bắc lần thứ hai:

Cũng giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhà báo Nguyễn Thành ở ban quân sự báo Quân Đội Nhân Dân từng ra 1 vế: Pháo thủ pháo tầm xa, đánh địch tầm gần, tay thủ thêm thủ pháo

vế đối 1: Công nhân công việc nội, làm công việc ngoại, người nhân cộng nhân công.(Thiền Long)

(căn cứ từ điển Việt Hán : tay = thủ ; người = nhân)

Không rõ tự khi nào, có 2 cha con ông thầy thuốc về quê, trên vai gồng gánh mấy thứ thuốc bắc, tức cảnh sinh tình người cha đưa ra một vế đối:

vế ra: Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh Hồi Hương, Phụ Tử (khuyết danh) vế đối 2: Chị em trồng hoa trông trời, bó hai bó Hướng Dương, Tỉ Muội (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) vế đối 3: Anh em hội cảnh hóng gió, bình đôi bình Nghinh Phong, Huynh Đệ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Nghinh Phong còn có nghĩa là hứng gió cho mát. Hội cảnh là Hội sinh vật cảnh). vế đối khác: Vua tôi cang thường giữ cán, khâu hai khâu Phu Phụ, Quân Thần (Trường Văn) (Theo Từ điển Hán Việt (Google) chữ Phu có nhiều nghĩa, trong vế đối này dùng nghĩa động từ là Giữ và nghĩa danh từ là Chồng; chữ Phụ cũng có nhiều nghĩa, trong vế đối này dùng với 2 nghĩa danh từ là Cán (Chuôi) và Vợ. Phu Phụ có nghĩa như Phu Thê tức là vợ chồng. Tam Cang là Quân Thần, Phụ Tử và Phu Thê. Ngũ Thường là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín. Tam Cang và Ngũ Thường là tiêu chí tu dưỡng hoàn thiện đạo làm người của Nho giáo ngày xưa và cho đến nay vẫn là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá đạo đức con người – từ vua quan cho đến thường dân.). Giữ Cán ở đây có nghĩa nên nắm quyền chủ động trong xử thế – thành ngữ có câu: “Nắm đằng cán chứ ai nắm đằng lưỡi”. vế đối 5: Vợ chồng bán bánh phố vua, xe một xe Kinh Đô, Phu Thê (khuyết danh) (phố vua cũng có nghĩa “kinh đô” tức thành phố nơi vua ở, và vợ chồng (cũng có nghĩa “phu thê”. Kinh đô, phu thê (còn gọi là xu xê) đồng thời lại là tên gọi các loại bánh nổi tiếng…) vế đối 6: Bạn trai phường nhạc phóng ngựa, ca mấy ca Tẩu Mã, Nam Bằng (khuyết danh) (Nam = trai, bằng = bạn; phóng ngựa là tẩu mã. Ngoài ra Tẩu mã, Nam bằng “tức Nam Bình” cũng là tên một số điệu nhạc cổ) vế đối 7: Chồng vợ diễn viên gặp lại, ca song ca Tái Ngộ Phu Thê (khuyết danh)

2 vế đối của Thanh Lê:

7 vế đối của Phạm Doanh:

Những vế đối khác:

Những vế đáp của Hà Hiển:

a) Con dê dê con dê cụ, con dê cụ cũng dê con dê.

Từ câu này có thể phát triển thành vế đối mới có vần điệu hơn mà nghĩa vẫn không khác mấy dù hơi tục, là:

b) Con dê chê con dê đụ, con dê đụ không chê con dê. (“con dê” chê một con dê khác… đụ không ra gì, con dê khác kia thì không chê nên vẫn… đụ, he he),

hoặc tục hơn:

c) Con dê đụ con dê cụ, con dê cụ cũng đụ con dê.

hoặc:

d) Con dê dê con dê cụ, (vì) con dê cụ không phải cụ con dê (ý là vì không phải cụ của nó nên nó mới dám “dê” mà không sợ phạm thượng)

Con gà mổ con gà mổ, con gà mổ không mổ con gà!

Chuyện kể rằng… …trời nắng như đổ lửa…Có 1 anh thợ mộc mồ hôi nhễ nhại. trên vai lỉnh kỉnh những dụng cụ đồ nghề. Khi đi ngang qua làng nọ thấy có giếng nước mát lành, anh ta cúi xuống vục 2 tay làm 1 hơi đã cơn khát đoạn bước hai chân xuống khoắng lấy khoắng để …giải cơn nồng. Sau đó toan vào quán hàng bên gốc đa liền đó nghỉ chân cùng với mấy người nông dân đang ngồi đó hóng mát. Cô gái bán hàng ngồi sau gian hàng thập cẩm khẽ khàng nói:

Giếng nước trong veo, bởi Chạm chân Chàng nên mới Đục

Anh chàng thơ mộc thấy cô bán hàng nói lỡm mình, ra một vế đối có ba từ chỉ ba loại dụng cụ thợ mộc CHẠM, CHÀN, ĐỤC (danh từ), lại vừa chỉ các động tác thợ mộc ( chạm, đục), lại có hai từ chỉ tính chất đối nghĩa nhau (trong veo-đục), lại có từ chàng (danh từ vừa là đại từ nhân xưng). Lúng túng một lúc, thấy cô bán hàng xinh trẻ, anh ta ung dung nói:

QUẦY HÀNG LỆCH XỆCH, VÌ CƠI MIỆNG ĐẤU LẠI THÀNH CÂN

Cô bán hàng thấy câu anh thợ mộc nói cũng có đủ ba loại dụng cụ bán hàng CƠI, ĐẤU, CÂN là những thứ để cân đo đong đếm, lại có các từ CƠI, CÂN là các động từ chỉ động tác của người bán hàng, lại có hai cặp từ LỆCH XỆCH – CÂN đối nghĩa với nhau. Chỉ kém câu xuất có từ CHÀNG là đại từ.

Nể phục anh thợ mộc tài hoa, cô bán hàng mời chàng một cốc nước và miếng trầu lấy từ trong cơi trầu ra, miếng trầu là đầu câu chuyện. Nghe đâu, sau này họ nên vợ nên chồng và rất hạnh phúc.

Cao Nghiêm đưa ra một loạt các vế đối sau:

LƯỠI: Lưỡi trong miệng, lưỡi câu. CÁN – LƯỠI : Cán dao , cán cuốc … đối với lưỡi dao , lưỡi cuốc…Luật Bằng Trắc: Giếng nước – Nhà Văn, Trong Veo – Mẫn Cán, Bởi – Không, Chạm – Cần, Chân – Ngắt, Nên – Đọc, Mới – Cong)

Những vế đối của Nhất Chi Mai:

Bữa nọ, có 3 người gồm một thương gia, một thầy dạy toán và một thầy dạy sinh vật trên đường đi công tác, bị mắc mưa tầm tã. Cả ba liền tắp vào một quán cà phê cạnh đường, vừa đụt mưa, vừa du dương điếu thuốc bên cốc cà phê phin nóng hổi. Đang ngồi lim dim nhả khói, bỗng thầy dạy sinh vật nói: “Tôi dạy môn sinh vật nhưng nay tôi xin múa rìu, nghĩ ra câu đối này đố anh em, ai đối được tôi sẽ trả tiền cà phê”.

Vế ra: Thầy sinh vật vật cô sinh vật, vật rồi lại sinh, sinh rồi lại vật Suy nghĩa 1 lát, thầy dạy toán đối: Anh bán thịt thịt chị bán thịt, thịt rồi lại bán, bán rồi lại thịt Anh thương nhân thấy vậy cũng góp vui: Anh tiểu thương thương chị tiểu thương, thương rồi lại tiểu, tiểu rồi lại thương vế đối khác 1: Ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối: Cô sử ký ký thầy sử ký, ký xong thì sử, sử xong thì ký vế đối khác 2: Chị giao hàng hàng anh giao hàng, hàng xong phải giao, giao xong phải hàng (Thiền Long) vế đối khác 3: Ả bắn tỉa tỉa gã bắn tỉa, tỉa xong cứ bắn, bắn xong cứ tỉa (Thiền Long) vế đối khác 4: Anh cứu thương thương chị cứu thương, thương rồi lại cứu, cứu rồi lại thương vế đối khác 5: Anh quốc ấn yêu chị quốc ấn, quốc (cuốc) rồi lại ấn, ấn rồi lại quốc (cuốc) vế đối khác 6: Chàng xây dựng dựng em xây dựng, dựng rồi lại xây, xây rồi lại dựng (Lê Quang Phiệt) vế đối khác 7: Anh chăn nuôi nuôi chị chăn nuôi, nuôi rồi lại chăn, chăn rồi lại nuôi (khuyết danh) vế đối khác 8: Anh đồ họa họa chị đồ họa, họa rồi lại đồ, đồ rồi lại họa (khuyết danh) vế đối khác 9: Anh bí thư thư chị bí thư, thư đúng chỗ bí, bí đúng chỗ thư (khuyết danh) vế đối khác 10: Anh khuân vác vác cô khuân vác, vác xong rùi khuân, khuân xong rùi vác (khuyết danh)

Nghe đâu, sau khi thầy sinh vật về nhà có nghĩ được một câu khác nội dung gần tương tự mà độ khó hóc búa hơn, và đặc biệt thêm 2 vế xuất nữa cũng rất khó nhưng rất tiếc thầy không gặp lại những nhân vật kia để thách đối nữa.

vế ra 1: Con bò cạp cạp con bò cạp, cạp rồi lại bò, bò rồi lại cạp, bò bò cạp cạp

vế ra 2: Thầy sinh vật cưới cô sinh vật vật vật sinh sinh

vế đối: Cô dạy lí bồ thầy dạy hóa hóa ra vô lí

vế ra 3: Học sinh học sinh học

1 – gái chưa chồng:

2 – địa danh Cao Bằng:

3 – Vế xuất về Trọng tài và Vận động viên:

4 – Vế xuất về Bánh ngọt:

Một đoàn tham quan tới thăm địa đạo Củ Chi, thấy có tấm biển treo giải cho ai đối hay nhất câu: Cô gái Củ Chi, chỉ cu hỏi củ chi

vế đối 1: Chàng trai Thủ Đức, thức đủ xin thủ đức (du khách người Thủ Đức) vế đối 2: Chàng trai Cần Giờ, giơ cần hỏi cần giờ (du khách người Cần Giờ) vế đối 3: Cô gái Hải Dương, hưởng giai ngoài Hải Dương (du khách người Hải Dương) vế đối 4: Chàng trai Ðồ Sơn, sơn đồ bán đồ sơn (du khách người Hải Phòng) vế đối 5: Chàng trai Hàng Chuối, chuồi háng bảo hàng chuối (du khách người Hà Nội) vế đối 6: Chàng trai Bắc Cạn, bán cặc ở Bắc Cạn (du khách người Bắc Kạn) vế đối 7: Chàng trai Giải Phóng, phỏng dái khi giải phóng (du khách là cựu chiến binh, tương truyền chiến sĩ này chợt nhớ lại trận đánh ngày 30/04/1975 của mình khi vừa vào giải phóng Miền Nam thị bị thương đúng vùng bộ hạ ở chân cầu Sài Gòn) vế đối 8: Chàng trai Hoa Kỳ, kỳ hoa hỏi hoa kỳ (du khách người Mĩ gốc Việt) vế đối 9: Chàng trai Mường Tè, nhè tường bảo Mường Tè (du khách người Lai Châu) vế đối 10: Cô gái Phú Khánh, phanh vú tìm Phú Khánh (du khách người Phú Yên) vế đối 11: Cô gái Cù Mông, cùng mu đòi cù mông (du khách người Bình Định) vế đối 12: Chàng trai Giồng Dứa, trồng dừa giống, trên giồng dứa (du khách người Tiền Giang) vế đối 13: Chàng trai Láng Hạ, lạ háng người Láng Hạ (du khách khác cũng người Hà Nội) vế đối 14: Chàng trai Thành Đông, đồng thanh hét thành đồng (du khách người Vĩnh Long) vế đối 15: Chàng trai Đăk Na đa nắc mà đắt na? (Phú Đa Nguyễn Phước An) (Đăk Na là xã thuộc huyện Sa Thầy tỉnh Kon Tum) vế đối 16: Chàng trai Cửu Long cõng lu bị lỏng cu (du khách người Trà Vinh) vế đối 17: Cô gái Gò Me mò ghe hỏi Gò Me (du khách người Tiền Giang) vế đối 18: Cô gái Móng Cái cóng mái hơ móng cái (Dương Hồng Kỳ) vế đối 19: Chàng trai Mông Cổ mổ công ăn mông cổ (Dương Hồng Kỳ) vế đối 20: Chàng trai Hòn Đất hất đòn quăng hòn đất (Dương Hồng Kỳ) vế đối 21: Chàng trai Cầu Giấy cấu giầy làm cầu giấy (Dương Hồng Kỳ) vế đối 22: Chàng trai Gò Vấp gấp vò qua gò vấp (Dương Hồng Kỳ) vế đối 23: Chàng trai Bắc Cực bú cặc than Bắc Cực (khuyết danh) vế đối 24: Chàng trai Bình Thạnh thành bịnh vì Bình Thạnh (khuyết danh)

Các giáo viên ở trường Phả Lại có mấy câu đối lại như sau: Vì ở vùng đất Chí Linh đã có dốc Ba Đèo lại có cả Đèo Trê:

Năm 1938, ở làng Si (nay thuộc thôn Cổ Phục Bắc) xã Kim Lương huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương có 1 đám cưới khi người ta đang ăn cỗ thì có 1 kẻ ăn mày ngang qua nói là hàn sĩ nhỡ độ đường và xin bát cơm lót dạ. Pháp Sư Nguyễn Thế Phễ là nhân vật hay chữ thấy vậy ra 1 vế đối, nói rằng đối được thì sẽ cho.

Người ăn mày kia đối: Đất Bái van lại lạy

Ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối 2 câu:

Ông Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đối 2 câu:

Vế đối khác: Đức ông chồng công phu

Tương truyền, Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến có ra một vế đối na ná câu của thầy Pháp Phễ sau này, nhưng thêm 1 vài câu từ, không rõ thầy Pháp Phễ nọ có lấy ý từ câu đối của Tam Nguyên Yên Đổ ngày trước hay không…?

vế ra: Con rể nết na xem tử tế vế đối 1: Cháu mọn chững chạc nom tôn ti (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) vế đối 2: Cháu út đàng hoàng trông tôn quý (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) vế đối 3: Người yêu thật thà trông nhân ái (Thiền Long) vế đối 4: Người sau hiền hòa trông nhân hậu (Thiền Long) vế đối 5: Ông chồng cay đắng kể công phu (khuyết danh)

“Tử tế”, “tôn ti”, “tôn quý”, “nhân ái”, “nhân hậu”, “công phu” (HV, cấu tạo theo ngữ pháp tiếng Việt), cùng nghĩa với “con rể”, “ông chồng”, “cháu mọn”, “cháu út”, “người yêu”, “người sau” (TV). “Tử tế” (có đủ theo yêu cầu, không lôi thôi; có lòng tốt), “tôn ti” (chững chạc), “tôn quý” (đàng hoàng), “nhân ái” (thật thà) “nhân hậu” (hiền hòa), “công phu” (sự hao tổn sức lực, thời gian) dùng theo ngữ cảnh thuận, là những từ có gốc HV, chuyển thành từ ngữ HV cùng âm, do xuất hiện các yếu tố TV cùng nghĩa với chúng.

Tỉnh Nam Định có vùng đất Lạc Quần, nơi có chợ, có sông tấp nập, đồng thời lại có xứ Quần Lạc cách Lạc Quần không xa, cũng trù phú không kém. Làng Quần Lạc và làng Lạc Quần là hai làng khác nhau, cách nhau con sông Ninh Cơ. Ngày nay có lẽ nhiều người trẻ sống tại nơi đó cũng không biết đến tên Quần-Lạc, vì đã bị chính quyền xóa sổ và sáp nhập. Vậy cái Làng Quần-Lạc (thành-lập cách nay khoảng 400 năm, còn có tên là Village Kwan-Lak thời thập-niên 30) nằm ở đâu? Bên tả-ngạn sông Ninh-Cơ, một chi-lưu của sông Hồng, cách tỉnh-lỵ Nam-Định khoảng 26 km về phía đông-nam, bên phải đường số 21. Ngày ấy, lũ con gái làng Quần Lạc sang bên Lạc Quần mò cua bắt ốc, tụ tập nô nghịch tắm nhảy ở bờ sông, do mải chơi nên lúc về tối muộn bọn họ ào lên bờ lấy lẫn lộn quần áo của nhau, vừa chạy vừa mặc, âu cũng là chuyện vô tình cho nên vì vậy mới có câu thách đối nêu ra các địa danh này như sau:

Trong một lễ cưới tại Tân Thuận Đông. Sui gia hai họ, đàng gái thì gốc Gò Công còn đàng trai là người quận Hóc Môn, Gia Định. Số là, sau khi đi rước dâu từ khuya và sau phần nghi thức hôn lễ, hai họ và thân bằng quyến thuộc được nhà trai khoản đãi long trọng tại tư gia. Mà khi rượu vào thì lời phải ra như ông bà ta xưa nay thường nói. Thấy các cậu đi họ nhà trai vừa liếng thoắng vừa vui vẻ, một cô gái Gò Công, không những xinh xắn mà lại có máu tiếu lâm, bị kích động, cả gan “chọc ghẹo” các cậu trai quê 18 Thôn Vườn Trầu. Cô nói: “Trai Hóc Môn thật là danh bất hư truyền, chơi rắn mắt không ai chịu nổi!” Có ai đó lớn tiếng đòi cô giải thích. Cô thản nhiên đáp: “Chứ không phải Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc đó sao? Hóc Môn là hôn móc chứ còn gì nữa!”

Mặt đỏ gay vì men rượu, cậu khoan thai đứng dậy chào hai họ rồi ung dung trả lời: “Thưa quí chị quí cô, nhờ con trai Hóc Môn chơi bạo như vậy nên mới có chuyện: Gái Gò Công vừa gồng vừa co đó mà”! (Gò công nói lái là gồng co) vế đối khác 1: Gái Đà Nẵng vừa đằng vừa nã (Phú Đa Nguyễn Phước An) vế đối khác 2: Gái Đà Rằng vừa đằng vừa rà (Hoài Anh Võ Quang Thạch) vế đối khác 3: Gái Đồng Dù vừa đù vừa giồng (khuyết danh)(Đồng Dù thuộc huyện Củ Chi thành phố Hồ Chí Minh, sát Quốc lộ 1, cách thành phố 30 km về phía tây bắc) vế đối khác 4: Gái Bắc Ninh, vừa binh vừa nắc (khuyết danh) vế đối khác 5: Gái Hà Đông, vừa hồng vừa đa (khuyết danh)(lấy ý ở câu trong sách tướng: “Hồng Diện đa dâm thủy” nghĩa là con gái má hồng thường thường rất đa dâm)

vế ra: Thế quỳ, thế đội, thế bò, thời thế thế, thế mà chẳng thế (Hữu Loan)

vế ra: Mày ăn dân, dân ăn mày (Hữu Loan)

Tương truyền, nhà thơ Nguyễn Bính từng ra 2 câu đối khá hóc búa như sau:

vế ra: Tập thể giục tập thể dục tập thể (nghĩa là: tập thể, giục tập thể dục tập thể. Ở đây nhà thơ đã lợi dụng chữ Giục là thúc giục để nếu đọc mà không viết thì đồng âm với chữ dục trong thể dục) vế đối:Ông bà dỗ ông bà giỗ ông bà (Thiền Long) ( Nghĩa: Ông bà này dỗ dành an ủi ông bà kia vì họ đang buồn trong ngày giỗ của ông bà tổ tiên họ; chữ “dỗ” đồng âm với “giỗ” như yêu cầu vế ra) vế đối khác: Hợp đoàn ca, hợp đoàn ca hợp đoàn. (Nguyễn Sư Giao) vế đối: THẦN TƯỢNG THẦN TƯỢNG HÓA THẦN TƯỢNG (Thiền Long) (“Tập thể dục” là cụm động từ có thể được đối bằng cụm động từ ” thần tượng hóa”. Mỗi người đều có các thần tượng của mình ở các lĩnh vực, bản thân ngôi sao hay thần tượng nào đó cũng có thần tượng riêng khác có thể là ngôi sao hoặc không, khi thích ai đó họ thần tượng hóa người đó lên bằng cách rất khen, rất thích các ưu điểm…).

Năm ấy, Nguyễn Bính đi Chợ Chủ định mua đường (Chợ Chủ ở quê Nhà Thơ). Không mua được đường, đi lòng vòng mãi mới về. Ông ra một vế đối mời các bạn đối mà ngay lúc bấy giờ không ai đối được:

Có người ra 1 vế đối hóc búa như sau: Chuồng gà kê áp chuồng vịt (Kê áp là động từ nhưng trong tiếng Hán Việt cũng có nghĩa là gà, vịt)

Nhà thơ Nguyễn Bính là người giỏi tiếng Pháp, bảo: “Câu này khó, phải dùng tiếng Tây mới đối được”. Và ông đối: Chú chuột ra bớp chú bò (Chuột=rat (tiếng Pháp rat đọc là “ra”), Bò=boeuf (tiếng Pháp boeuf đọc là “bớp”) Nhà báo Thái Hòa An ở Tạp chí Thanh Tra có vế đối như sau: Chú chuột thử mẹo chú mèo (Chuột với mèo vốn là kẻ thù thiên địch và lợi thế luôn thuộc về mèo. Nhưng con chuột trong vế đối này đã thành tinh (đang giỡn mặt mèo), nó biết bắt chước hành vi của mèo (mưu mẹo) để kiếm ăn và tồn tại…) vế đối khác: Con ngựa kỵ hầu con khỉ (Thiền Long) (Phân tích vế ra: Nghĩa từ “kê”: là động từ “đặt” vừa có nghĩa Hán Việt là danh từ “gà”. Nghĩa từ “áp”: động từ chỉ hành động làm cho bề mặt vật này sát bề mặt vật khác, nghĩa Hán Việt là danh từ “con vịt”. Phân tích vế đối: Nghĩa từ “kỵ”: là động từ muốn tránh, không thích, không hợp vừa là danh từ hán việt chỉ con ngựa. Nghĩa động từ “hầu”: là động từ hầu hạ, phục vụ; nghĩa Hán Việt là danh từ chỉ con khỉ. Ý khái quát của vế đối là: con ngựa không thích hầu, không thích chở con khỉ trên lưng của mình. Con vật thì bình đẳng như nhau) vế đối khác: Chú gấu hùng hổ chú cọp.

Một lần, Nguyễn Bính đi đến Đèo Ngang, chợt nhớ đến bài thơ “Qua Đèo Ngang” nổi tiếng của Bà huyện Thanh Quan, xúc cảm và có hai câu thơ cảm khái về địa danh này như sau:

Sau 1954, nhóm Tự Lực Văn Đoàn vào Saigon, xuất bản tạp chí “Ngày nay”, in bởi một nhà in mà TLVĐ vừa mới mua (nhà in nhà, khỏi phải đem đi mướn in) nhân đó họ có ra một vế đối như sau:

Có năm Tết đến, nhà thơ Vương Trọng mua được pháo Bình Đà về đốt cho vui cửa vui nhà. Ai dè giao thừa pháo nổ to quá làm vỡ cả bình hoa đào. Thế là, tức cảnh sinh tình ông nghĩ ra câu đối hay:

vế ra: Pháo Bình Đà phá bình đào

Tết Giáp Ngọ (2014), giá hoa cúc ở Thành phố Buôn Ma Thuột tăng vọt, vợ chồng nọ trồng trúc để bán nhưng không được chuộng nên mơ ước:

Các nhà văn và nhà thơ quân đội ở nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội là những “ông vua” câu đối và “đối…lái”. Có lần, cơ quan liên hoan mừng nhà văn Hồ Phương được phong quân hàm thiếu tướng. Khi được phong cấp tướng, nhà văn Hồ Phương được nhận tiêu chuẩn nhà mới nên nhường lại căn hộ cũ của mình cho một sĩ quan cấp tá. Nhân chuyện này, Đồ Nghệ Vương Trọng bèn nêu một vế thách đối:

Nhà Thơ Vương Trọng còn có một câu đối khó như sau: Cứ Khóa Quá Khứ lại, Thời Gian là Than Giời, Mơ Hão chỉ Hao Mỡ, Đỉnh Cao Đảo Kinh người

vế đối:Ngài may ngày mai còn, tháng năm dẫu thắm nan, thích nhàn cứ thàn nhích, văn chương vương chăn màn (Thiền Long)(“thàn” có nghĩa là ung dung, “văn chương vương chăn màn” ý nói sự say mê văn chương ngay cả lúc đi ngủ. Toàn ý câu đối gợi ý sự thong thả, trung dung)

Nói tới người tham quyền cố vị, không chống lại với quy luật của tự nhiên, “Đồ Nghệ” đã có những câu thơ: “Răng muốn trắng lại đen, tóc cần đen lại bạc, chức quyền chẳng chịu cao, chỉ toàn cao huyết áp”. Hai câu trên của thơ được lấy ra làm thành 1 vế xuất tương đối khó như sau:

Một lần thấy nhà văn Lương Sĩ Cầm đi cùng một nhà văn có bà vợ không biết tại sao có thói quen hàng tháng cứ đến ngày lĩnh lương thì nhanh nhảu đến cơ quan lĩnh lương của chồng. Vương Trọng biết chuyện liền ra ngay vế đối:

Các vế đối khác chưa chuẩn nhưng cũng đưa cả vào để tham khảo

Ngày 31/12/2016, được nghỉ ngày thứ bảy hơn nữa lại chuẩn bị mừng năm mới Đinh Dậu, danh nhân Nguyễn Văn Luyện có sang nhà bà cùng quê biếu bà một cuốn lịch treo tường, bà không có nhà chỉ có hai đứa cháu ở nhà, thấy cuốn lịch to và đẹp bọn trẻ mừng lắm, chúng hồ hởi đóng đinh muốn treo ngay, người thấp lại đóng đinh chỗ cao cứ phải kiễng chân lên, đóng không chuẩn làm sứt miếng tường. Vừa lúc ấy bà về nhìn thấy miếng tường bị sứt tỏ ra sót xa nói: “Gà ơi gà sao không bình thân, kê cao ghế đóng đinh đúng chỗ” (ý bà là đóng đinh đúng vào mạch vữa). Đúng như lời các cụ dạy “Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già”. Bình tĩnh lại hai đứa kê ghế đóng đinh chuẩn luôn, cuốn lịch được treo lên ngay ngắn trông thật đẹp. Nguyễn Văn Luyện không biết nói gì chỉ tủm tim cười: đóng đinh không đúng chỗ thật phức tạp, vừa hỏng tường lại bị mắng, vậy có câu:

Ông Phạm Cường ở Biểu Chánh, Phước Hưng, Tuy Phước, Bình Định có kể lại một vế đối từ thời xưa (có thuyết cho rằng vế ra này của Ông Nghè Đào Thiên, một vị Tiến sĩ rất giỏi câu đối và cũng là người cùng làng Biểu Chánh) như sau:

vế ra: Mang vịt cuốc trùn lừa cá ngựa (Mang còn có nghĩa là con mang trên rừng, vịt còn có nghĩa là cái vịt đan bằng tre có hình giống con vịt dùng để đựng cua, ốc, cá; cuốc còn có nghĩa là con cuốc, lừa còn có nghĩa là con lừa).

Cắt vừa là con cắt vừa là động từ cắt. Vạc là con vạc vừa là động từ vạc, phát, phang. Nghĩa vế đối là đem cái còng cắt ốc vít làm dụng cụ để đuổi phang chim heo đi vì chim heo là điềm không may mắn)

Năm nào cũng vậy, cứ đến tháng 10 nữ sĩ Lý Hồng Đức lại rất bận bịu! Không mở mắt nỗi ý dưng mà thơ thì cũng thèm, và do rứa mà bỗng nghĩ ra một vế xuất hay:

Ngày 5/12/2016, nhân gặp lại một người bạn cũ gợi nhớ về những kỷ niệm xưa, nữ sĩ Lý Hồng Đức chợt nghĩ ra một vế đối:

Nhân dịp danh nhân Hoàng Minh Tuyển được mấy người xứ Nghệ tâng bốc là Nghệ nhân trồng lan. Sướng âm ỉ, chợt ông nghĩ ra vế thách:

Nhân dịp đón xuân Đinh Dậu (2017), Nghệ nhân trồng lan Hoàng Minh Tuyển, có vế thách vui:

Sau khi nữ sĩ Lý Hồng Đức tổng kết vế đối rất sôi nổi, Nghệ nhân trồng lan Hoàng Minh Tuyển lại nẩy ra vế thách mới:

Ngày 29/12/2016, do mấy hôm đau đầu vì về thách hại não của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh. Nghệ nhân trồng lan Hoàng Minh Tuyển ra một vế thách rất ngắn để xả stress cho cả nhóm:

Đã hơn 40 năm kẻ quê mùa, Nghệ nhân trồng lan Hoàng Minh Tuyển (tự ví mình là Lão nhỏ) gần về hưu mà vẫn cứ thích bám nơi Đầu to (Thủ đô), có vế thách tự nhạo mình:

Một lần, Hàn Phong qua tường người bạn chơi, tình cờ thấy ngay 1 câu đối nho nhỏ mà hay:

Ngày 9/12/2016…Hàn Phong có đưa ra 1 vế xuất khá thú vị như sau:

vế ra: Chuốt bộ Mã, Ngựa hồng phi giấc Ngọ (Hàn Phong) vế đối 1: Xoa râu Dương, Dê trắng quất canh Mùi hoặc Tẩm cường Dương, Dê trắng “nhảy” giờ Mùi (Tiêu Tường)(Ý nói uống thuốc “tráng dương, bổ thận” rồi “nhảy”) vế đối 2: Khua gậy Long, Rồng trắng bạch chiêu Thần (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(GẬY LONG là cây Long hoặc gậy của vua và Long cũng là Rồng. THẦN là THÌN là Rồng, THẦN là sớm – NGỌ là trưa, TRẮNG = BẠCH (thưa, trình). ĐỎ = HỒNG = PHI (bay) vế đối 3: Bắt con Chuột, Tí nữa mần nhậu Thử (Phuc Huynhthanh) vế đối 4: Ăn quen Mùi, Dê bạch gặm cành Dương (Phu Quy Dang) vế đối 5: Nhe răng Hùm, Cọp dện tẩu xa Dần (Phu Quy Dang) vế đối 6: Tô mào Kê, Dậu tía ủ canh Gà (Tuyên Phạm)(Dậu: Trong Tí , Ngọ, Mão, Dậu… ( thuộc 12 con giáp ). Tía – màu tía, theo một vài cách hiểu (không phổ biến) cũng là vai vế (người) có tiếng nói) vế đối 7: Chui bờ Dậu, Gà con tìm hạt Kê (Anh Xuân Lê) vế đối 8: TÌM THI VỊ DÊ ĐỎ DƯƠNG RƯỢU MÙI (Thiền Long)(“Vị” cũng là chi “Mùi” trong 12 con giáp. “dương” vừa có nghĩa “con dê”, vừa là động từ “giơ lên” vừa có nghĩa “màu đỏ”. “rượu mùi” là rượu trái cây (từ điển)} vế đối 9: Ôm phận khỉ, thịnh vượng ấm thân hầu (Tutru Nguyen)(câu này xét vè vị trí của từ ngữ thì chưa được chuẩn) vế đối 10: Em Thường Mang, Bầu Xanh nấu hoa Bí (Yến Thanh) vế đối 11: Vuốt râu Hùm, Bạch Hổ xuất binh Dần (Vĩnh Bế Nguyễn) vế đối 12: Vô chuồng Cọp, Hổ đói vuốt râu Hùm (Anh Xuân Lê) vế đối 13: Giở tính Khỉ , Hầu cận lừa phụ Thân (Anh Xuân Lê) vế đối 14: Chờ mưa giông, tràu mái đẻ lồng rồng (Phu Quy Dang)(cá giông cùng loài nhưng mình nó có bông. Còn lồng rồng là cá con) vế đối 15: Chơi vài quả, lóc già nhảy lửng cửng (Phu Quy Dang) vế đối 16: Trơ mặt Chó, Lang băm đớp em Cầy (Vĩnh Bế Nguyễn)

Câu đối viết tặng nhạc sỹ Đỗ Thanh Khang:

quê xứ Bắc (Hưng Yên), lấy vợ tỉnh Hà Bắc (xứ Bắc Hà), những “…” của xứ Bắc là niềm gợi nhớ, rung động, có thể chắp cánh cho anh Bay… Ra..!

vế ra: TRAI BẮC HÀ NHĂM NHE XỨ BẮC, GÁI ĐÔNG QUAN ĐỦNG ĐỈNH THÀNH ĐÔNG (thi hữu Tạ Văn Hoành đã gộp cả đôi câu đối viết tặng nhạc sỹ Đỗ Thanh Khang để tăng cường độ khó và sức hấp dẫn của vế ra)

Hình ảnh Đỗ Thanh Khang, một nhạc sỹ đa tài đã nhiều lần thi hữu Tạ Văn Hoành muốn tìm từ để diễn tả mà đến mấy bận vẫn chưa thật thỏa…! Nay may sao, ngắm bức ảnh nhạc sỹ “Kễnh” trên cái lưng “Hồ bán nguyệt” trong chuyến Du hý Bắc Giang, thi hữu Tạ Văn Hoành mới chợt bật được ra một vế đối vui…!

Đào Phong Lưu nổi danh trên Việt Nam thi đàn về cái sự Đào hoa của mình, khiến thi hữu Tạ Văn Hoành cùng bạn bè chỉ biết thầm ngưỡng mộ…Nhân thấy cái ảnh ông đang vui cùng các giai nhân, mỹ nữ mà thi hữu Tạ Văn Hoành nổi hứng ra vế đối tặng:

Nhân dịp các cao thủ đối đáp như: Hoàng Minh Tuyển, Nguyễn Phước Thạnh cho ra liên tiếp toàn những Dậu, Kê, Gà với những vế đối hóc… đầu như muốn vỡ ra..! Nhân đọc mãi chuyện Kê – Gà, nửa buổi thi hữu Tạ Văn Hoành mò sang hàng xóm gẫu chuyện với trà đặc, thuốc Lào… Tay hàng xóm vốn ham rượu, mà đã rượu thì phải có món Gà luộc, là sở trường yêu thích..! Hai người trà đặc tới tận trưa, xót cả ruột mà vợ tay ấy vẫn chưa về, cái mặt thớt sưng tướng… Vừa càu nhàu mụ vợ, sao mà “thiêng”… Mụ vợ ngoáy tít đôi mông giành, chóng cả mặt, nhưng đáng yêu lắm lắm. Đã thế cái miệng cứ tươi như Hoa, nở tít..! “Có đồ nhậu cho mình rồi đây..! Hôm nay đông khách quá, em bán đôi chục gà luộc hết veo. May mà bớt cho mình được một con…”. Thi hữu Tạ Văn Hoành nghĩ thầm: “Chắc mụ vợ nịnh chồng để qua cơn bĩ vì về chợ muộn…” Tiếng thớt băm chan chát, mặt tay hàng xóm giãn ra như cái bánh đa dấp nước… May quá, Cô hàng xóm cũng gọi, thi hữu Tạ Văn Hoành bèn kiếm cớ chuồn cho vợ chồng tay ấy thủ thỉ với nhau. Người vợ chào khách, buột miệng nói sau một cái nháy mắt đầy ẩn ý..! Vậy là vế xuất đối mới nảy ra:

Chưa bao giờ thi hữu Tạ Văn Hoành thấy Chiếu đối lại “Đơm hoa kết trái” như tháng cuối năm Bính Thân… Kẻ xuất chiêu, người đối đáp, thật đã..! Không bỏ lỡ cơ hội, ông mang chuyện Chiếu ra kể cho ông bạn già nghe (gọi là bạn, nhưng Cụ cũng ngoại Bát thập), cụ lắc đầu quầy quậy: “Thôi, xin đừng nói chuyện đối nữa, lại khổ tôi, Lão đốc..!” Thi hữu Tạ Văn Hoành còn đang phân vân chưa hiểu, cụ nâng chén trà đặc sánh cắm tăm, rồi thủ thỉ…: “Lấy vợ trẻ khổ thế đấy Lão đốc. Con riêng có hai thằng, Bà hai này có thêm dăm thằng, tổng cộng Thất Bảo rồi còn gì mà Mụ ấy đâu có chịu buông tha cho tôi (Lão bạn cứ gọi Mụ cho xứng đôi, chứ Mụ năm nay mới băm lăm, băm bẩy, còn “xuân” chán…). Tết năm ngoái – cụ tiếp – Đêm ba mươi Mụ cứ đòi tôi “mừng tuổi” thêm một thằng nữa, tôi kiếm cớ. Lão giờ “THẤT BẢO” rồi..! Mụ ấy không chịu, cũng gớm lắm. Ông ơi, nhưng em muốn “LỤC VỊ” cơ..! Ý mụ là muốn có 6 thằng con riêng ấy..! Cái sống lưng nay cũng đã rũ rượi, chỉ cần nghe tiếng “Ông ơi” ngọt như mía lùi của Mụ là tôi đã rùng cả mình..! Cố cứu vãn tình thế… mới nói. “XUÂN ĐẾN ĐUỔI XUÂN ĐI”… Có ý chối, quay lưng, úp mặt vào tường, đành nhịn nhục vậy dù… trong lòng cũng còn tiêng tiếc lắm. Nhưng Mụ con út ông Đồ nho cuối làng, cũng chẳng chịu kém cạnh… Lật chăn, ngồi phắt dậy, tay bó gối, dỗi dỗi… nghe chua chát mà thương..!!! “PHỤ GIÀ CHỜN PHỤ TRẺ”, rồi quay ngoắt, không thèm đếm xỉa đến cái thân già này. Ông bảo khổ tôi chưa, cái thằng Út lại được sinh ra từ vụ “mừng tuổi” đó. Lo THẤT BẢO đã muốn chết, nay lại BÁT THIÊN, nay tôi chắc cũng chỉ thọ thêm được đôi mươi năm nữa là cùng..!!! Thương lão bạn già quá, đành xin phép quay về, lau vội khóe mắt ướt để Mụ vợ lão bạn già khỏi cười vào cả mặt mình, vì… cũng chỉ vài chục năm nữa là mình biết đâu đấy, lại cũng Lão như lão bạn già kia thôi..??? Nhưng kể ra, lấy được mụ vợ như lão bạn già, cũng thú vị lắm thay..!!! Thế là câu đối hay ra đời:

1. Nguyễn Hữu Quyến: LỘC TÀN BAN LỘC NẢY

2. Hằng Phạm: HOA TÀN HOA LẠI NỞ

3. Hai Nguyễn Như: HỔ PHỤ SINH HỔ TỬ và GÀ MÁI ĐÁ GÀ CỒ với TRÂU CỘT GHÉT TRÂU ĂN

4. Chi Phương: MĂNG GIÀ NHỒI MĂNG NON

5. Thao Vu: ĐÔNG VỀ MANG ĐÔNG LẠI

6. Hoàng Minh Tuyển: LỘC VỀ MỜI LỘC LẠI và TÓC XANH CHEN TÓC BẠC

7. Tiêu Tường: XUÂN ĐẾN ĐUỔI XUÂN ĐI và LÃO TO NHỜ LÃO NHỎ

8. Nguyễn Minh Tuấn: CHUỘT VÀO LO CHUỘT RÚT

9. Lý Hồng Đức: NỤ BUNG CÙNG NỤ NẨY

10. Minh Tran: TUỔI MỪNG THEO TUỔI NGHĨ

11. Kim Nhu: ĐỐP QUA CHỜ ĐỐP LẠI và GIỐNG CON THỪA GIỐNG BỐ

12. Duong Nguyen Xuan: CÓC NGỒI NGHÊNH CÓC SỢ và CẢNH TÀN THEO CẢNH TÚNG

13. Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh: NƯỚC TRÀN LO NƯỚC RÚT và ĐIỆN XUỐNG XÂY ĐIỆN LÊN với TÁO DÂNG MỜI TÁO HẠ

14. Yên Lãng Vũ: HẠ VỀ MỜI HẠ Ở

15. Tru Phankhac: CHIM BAY XUA CHIM ĐẬU

16. Hoài Anh Võ Quang Thạch: MỐT VỀ THÊM MỐT TỚI

vế ra: Xuân Ngọ, đội nón ngựa, cưỡi tuấn mã, tới thôn Phù Mã, xuống ngựa vào đền Hạ Mã, lễ Phù Đổng thiên vương

Nhân dịp đón mừng xuân Ất Mùi, CLB thơ Văn Hóa Doanh Nhân Hải Phòng có câu đối treo giải xuân, các quý thi huynh thi hữu tham gia đối vui về một vế đối có nhưng con Dê biểu trưng cho năm Mùi:

” ĐẾN HẢI DƯƠNG ĂN THỊT DÊ VỀ NHÀ VẪN CÒN MÙI ! “ (Nguyễn Trác Hùng) (Phân tích: “Dương”, “dê”, “mùi”…đều nghĩa là Dê. Khó nhất là ở từ “mùi…có nghĩa đôi, vừa là “mùi vị”, vừa là “dê”)

Câu này mới nhìn thì thấy dễ, nhưng đối lại cho chuẩn là rất khó, vì từ “mùi” vừa là tính từ chỉ tính chất (mùi vị), vừa là danh từ chỉ con vật (con dê).

Quang Tuân xin góp đối 13 câu:

Đồ Cóc đối:

LÊN VÂN CẨU THẤY HÌNH CHÓ XUỐNG ĐẤT KHÔNG CÓ TUẤT

Nguyễn Anh Tuấn xin đối:

hslehieu xin đối:

CẦU LẠC LONG IN BÓNG RỒNG ĐI XA NHỚ DÁNG THÌN!

phungduc xin đối:

Về thôn Ngưu, xem chọi Trâu, ngân nga bài gọi Nghé

Nguyễn Thị Thùy Linh xin đối:

Sang Kim Mã mua tranh ngựa đến nơi đã chính ngọ

trần ngọc bích (Vĩnh Phúc) xin đối:

Đem đại thử vịnh thơ chuột họp lớp vui một tí

phungduc xin đối:

Thăm bạn Dần tặng tranh Hổ vui như đêm Ba Mươi

SÔNG QUÊ xin đối:

NĂM NGỰA NHƯỜNG BƯỚC NĂM THÂN, DỪNG XA MÃ TRƯỚC NGỌ MÔN QUAN

Vũ Nam xin đối:

Nguyễn Văn Long xin đối:

Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh cảm hứng xin đối 2 câu:

Hạn công bố giải thưởng là 15/3/2015 mà chẳng hiểu sao cho đến năm 2016 vẫn chưa thấy công bố kết qủa, câu lạc bộ thơ văn hóa danh nhân mà xử lý thông tin tùy tiện tiền hậu bất nhất như thế cũng đáng tiếc thật.

Đối đáp tại quán Phở Minh ở Sài Gòn thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa:

Đô thành Saigon thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa chỉ có một tiệm duy nhất ở đường Võ Tánh, gần Ngã Sáu, có món tái sách tương gừng và phở tái sách : tiệm Y. Thịt tái mềm, sách ròn nhai gau gáu, chấm với tương Cự Đà thì tuyệt cú mèo. Sau cuộc đảo chính của Dương Văn Minh, trong làng báo có hiện tượng “trăm hoa đua nở”, hễ có tiền là có quyền làm chủ một tờ báo. Thế là ông chủ tiệm phở Y bèn ra báo. Từ tái, chín, nạm, gầu, sụn, nhảy sang địa hạt chữ nghĩa, ông hoàn toàn bỡ ngỡ. Cho nên báo của ông chỉ có thể đến với độc giả bằng con đường ve chai, dĩ nhiên nó phải chết, và ít lâu sau ông cũng chết theo nó. Người vợ góa trẻ đẹp kế tục “sự nghiệp” của ông chồng quá cố, Tiệm Y phát đạt trở lại. Những người bạn văn nghệ của ông Y vẫn lui tới ăn phở như xưa, nhưng mục đích chính của họ là… ngấp nghé ngôi vị chủ tiệm. Sau mấy năm trời theo đuổi mà chẳng đi tới đâu, một người trong bọn họ, tức cảnh sinh tình, bèn mượn danh nghĩa bà quả phụ để ra một vế câu đối như có ý thách thức thiên hạ rằng : “Nếu ai đối được thì em xin nguyện lấy làm chồng”.

Một anh thợ cắt tóc đối: Tóc Tơ đâu phải giỡn, tớ liều Kéo lại chuyện Dao Đầu!

Còn anh làm nghề chọc tiết lợn thì viết: Hành Tỏi vừa thôi chứ, khách hăng Tiết đấy đủ Răm Mùi!

Đến lượt thầy lang, cũng góp thêm một tiếng nói: Thuốc Thang chưa đỡ hử, thầy còn Bốc nữa phải Bóp Xoa!

Một ông ở chợ cá góp lời: Cá Nước vui đi chứ, tớ lên Sốt sẵn để Kho Tôm!

Một ông thầy bói đối: Càn Khôn đâu cũng mặc, lão xin Gieo lại chẳng Can Chi

Một bác hủ nho tính ngay chuyện trăm năm: Thịt Xương tìm chốn gửi, mỗ xin Tô nữa, thử Giao Tranh (dao-chanh)

Một đại gia đã đứng tuổi nhưng goá vợ cũng tham chiến: Muối Tiêu chi đáng ngại, lão còn Gân chán tát Gầu Dai

Sau cùng thì một cụ đồ tuyên bố: “có một bông hoa thôi mà bấy nhiêu con bướm lượn, thiết tưởng để nàng được tiết hạnh trăm năm là hơn, vậy nên xin đứng ra ngỏ lời phương tiện”: Tiết Sương (xương) thôi giữ vẹn, lão không Hành nữa chẳng Tranh (chanh) Lèo!

Nguồn gốc câu đối Phở của Khuất Đẩu:

Khuất Đẩu, sinh 1940 tại Bình Định, Tên thật: Trương Đẩu. Sau ngày đi tù về, mỗi ngày Khuất Đẩu đều ra phụ với bà mẹ kế và các em ” bán phở “. Người Sài Gòn, phần lớn là gốc miền Nam, ăn phở bò hay ăn hủ tíu heo đều thích ăn với giá (sống hoặc chín). Vậy là, bà hàng phở bèn hô to: “tái giá cho chị . . . trước mặt đi” ! Câu đối này phát xuất từ một câu chuyện “một anh bạn chọc bà hàng phở. Anh ấy hỏi : Còn “gân” không?, bà ây bảo: Hết rồi chỉ còn tái thôi!”. Về nghĩa bóng, thì “Cái ẩn ý của vế xuất ở chữ gân vừa là món gân bò vừa là hãy còn “sung”, còn “ham” cái chuyện “ấy”. Tái giá vừa là thịt tái vừa giá, nhưng cũng là tiếng chỉ người đàn bà đi bước nữa… ” Theo Khuất Đẩu, thì “hai chữ tái giá hơi gượng vì tái nạm, tái gân, tái sách chứ không ai kêu tô tái giá. Nhưng miền nam, giá là thứ ăn kèm với nhiều món trong đó có phở.”

Câu 1:

18h ngày 28/1/2018, mừng đội tuyển bóng đá U23 Việt Nam chiến thắng trở về, Nguyễn Thị Hương ngẫu hứng xuất vế đối:

CHỜ CẦU THỦ TRÊN CẦU NHẬT TÂN, CẦU ƯỚC VIỆT NAM VÔ ĐỊCH TOÀN CẦU. (Nguyen Thi Huong) Chữ Cầu có 4 nghĩa: 1- Cầu thủ (danh từ); 2- Cầu (danh từ) Cây cầu; Cầu (động từ); Cầu: trái đất (danh từ)

Vế đối 1 NỔI ĐIỂM SÁNG TẠI ĐIỂM CHÂU Á, ĐIỂM TIN QUANG HẢI ĐỈNH CAO BẢNG ĐIỂM (Thiền Long).

Theo từ điển, chữ “điểm” có rất nhiều nghĩa dt, động từ có thể đối chữ “cầu”. ( 1. Dt “điểm sáng” (chấm sáng) 2. dt “địa điểm” . 3. Điểm tin = Động từ “đánh giá”, điểm lại vài nét… 4. Dt “điểm số” (bảng điểm số).

Câu 2:

HỒI HƯƠNG THƠM HƯƠNG HỒI (Nguyễn Thị Hương) Hai chữ Hồi hương đảo thành hương hồi, Hai chữ hương đối xứng nhau qua chữ thơm.

Vế đối 1:

PHÁO THỦ GIỮ THỦ PHÁO (Đinh Quốc Lập)

MỞ CỬA LÀM CHI, KHI SÔNG LẤP, CẦU RÀO, CỬA CẤM.

Vế đối 1:

NGĂN ĐƯỜNG NGỠ VẬY, CÒN CHỢ MƠ, PHỐ VỌNG, ĐƯỜNG THÀNH (Nguyễn Hữu Quyến) Chợ Mơ, Phố Vọng gần BV Bạch Mai, Đường Thành thuộc phố cổ Hà Nội. Vế đối đậm chất lạc quan, hi vọng tương lai khi đã có rất nhiều chiếc còng tặng chúng tôi tham.

NGÀN THIÊN gạch gánh lên NGÀN, xây BIỆT THỰ BỰ THIỆT – Hàn Phong

Vế đối 1:

BA TAM khôi về thăm BA, thấy NHÀ CỎ NHỎ CÀ?! (Trường Văn) 1. Ba = TAM; 2. Nhà cỏ lái thành Nhỏ cà 3. Biệt thự đối Nhà cỏ; Bự thiệt! đối Nhỏ cà!? Vế đối nói về cha mẹ nhà nghèo lo nuôi con ăn học thành tài và vui sống đời thanh bạch.

Vế đối 2:

TÁM BÁT CƠM NẤU GẠO TÁM, NÍCH SÁNG QUA QUÁ SANG ! (Nguyễn Thanh Toàn)

CHỈ CÓ CHỈ VÀNG THẾ CHỈ VÀNG (Dat Nguyen Dang)

Vế đối 1:

Vế đối 2:

CUA ĐỎ LỜ CUA ĐỎ (Nguyễn Văn Luyện)

Vế đối 3:

Ô NHỎ CHÈN Ô NHỎ (Nguyễn Thanh Toàn)

Vế đối 4:

SÁCH TRẮNG THAY SÁCH TRẮNG (Nguyễn Hữu Quyến) Cái gọi là “Sách Trắng” của Nhà nước là một Thông điệp có chữ hẳn hoi, đâu có bỏ trắng…

THỂ CHẾ ĐỒNG HÀNH… CÂU VÚT BÓNG !

ĐÀI DANH ẢO VỌNG… RẮN NGHE KÈN !

TẬP THỂ GIỤC TẬP THỂ DỤC TẬP THỂ (Nguyễn Bính)

CÁ NHÂN XƯỚNG CÁ NHÂN SƯỚNG CÁ NHÂN ! (Nguyễn Hữu Quyến)

VĂN CHƯƠNG CON CHÁU LẠC HỒNG, THẮM ĐƯỢM TÌNH NAM NGHĨA BẮC (Thiền Long)

Vế đối 1:

TÀI TRÍ QUÊ HƯƠNG BA THẮC, ĐẸP TƯƠI LÁ NGỌC CÀNH VÀNG (Nguyễn Hữu Thăng)

Thiền Long quê ở Sóc Trăng, tên cổ là Ba Thắc.

Vế đối 2:

DÒNG GIỐNG CHA ÔNG ĐẤT VIỆT VUÔNG TRÒN KHÍ SÓC CHẤT TRĂNG (Nguyễn Hữu Quyến)

Trong vế đối có 2 chữ Sóc Trăng, ý nói Thiền Long quê ở Sóc Trăng.

Vế đối 3:

THI PHÚ ANH EM SƠN HẢI, CHAN HOÀ Ý HẠ DUYÊN XUÂN. (Diên Minh )

Vế đối 4:

CHỮ NGHĨA ĐỆ HUYNH NAM VIỆT, HỒNG TÔ CUỐI ĐẤT CÙNG TRỜI (Tiêu Tường)

Nhân dịp Thi quốc gia năm 2018, Bộ Giáo dục đang bê bết với những trò gian lận thi cử ở Hà Giang, Sơn La, vào có thể còn nữa ở đây đó mà chưa phát hiện được, Nhà văn Phạm Thanh Cải đã xuất vế đối”

PHẢI CÓ TRỌNG ĐIỂM THI HÀNH RÀ SOÁT NHỮNG ĐIỂM THI ĐÃ NÂNG KHỐNG ĐIỂM THI VÀ PHÊ BÌNH, KIỂM ĐIỂM (Phạm Thanh Cải)

Vế đối của đối sĩ Thiền Long:

NÊN GIAM CHỦ TRÒ BỊP BỢM LOẠI TRỪ BAO TRÒ BỊP LUÔN BAO CHE TRÒ BỊP KHÔNG GIAN DỐI, GIỞ TRÒ (Thiền Long)

Câu đối sử dụng trong từng trường hợp cụ thể và Thơ xướng họa Việt Nam

Câu đối sử dụng chung trong các trường hợp cụ thể cố định

Câu đối chưa rõ sự tích và nguồn gốc xuất xứ

Câu đối về thời đại Hùng Vương, An Dương Vương và nước Nam Việt

Câu đối về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng

Câu đối về cuộc khởi nghĩa Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân

Câu đối về các danh nhân thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý (938 – 1225)

Câu đối về các nhân vật lịch sử thời Trần, Hồ, Hậu Trần (1225 – 1414) ‎

Câu đối về các danh nhân thời Lê, Mạc (1428 – 1621)

Câu đối về các danh nhân thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, Tây Sơn và Nguyễn (1621 – 1858)

Câu đối của các sĩ phu yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX

Câu đối của các nhà hoạt động cách mạng tiền bối nửa đầu thế kỷ XX

Câu đối về các danh nhân Đương đại ‎

Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Bắc Bộ

Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Bắc Trung Bộ

Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Nam Trung Bộ

Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Nam Bộ

Câu đối khắc tại phủ, điện, đình, chùa, đền, miếu xưa và nay ở thủ đô Hà Nội

Câu đối khắc tại Từ Đường của các dòng họ Việt Nam

Câu đối giao hữu trong Cơ quan đoàn thể và những tổ chức Phi chính phủ

Câu đối không có danh tính và một số giai thoại đối đáp của người Trung Quốc

Câu đối trong giai thoại dân gian có danh tính nhưng chưa rõ tiểu sử nhân vật

Câu đối ghi chép tại sách vở, gia phả hay ban thờ tại một số tư gia Việt Nam

Câu đối của các nữ sĩ trứ danh tự cổ chí kim

Câu đối cùng giai thoại đối đáp về đại thi hào Nguyễn Du và Truyện Kiều

Câu đối và những giai thoại đối đáp của các vị vua chúa triều Nguyễn

Câu đối và giai thoại về Uy Viễn Tướng Quân Nguyễn Công Trứ

Câu đối và giai thoại đối đáp của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835 – 1909)

Câu đối và giai thoại đối đáp về Sào Nam Phan Bội Châu (1867 – 1940)

Câu đối và giai thoại Thơ xướng họa về Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969)

Câu đối của những nhân vật định cư ở Hải ngoại

Câu đối của Giáo sư Anh hùng lao động Vũ Khiêu

Ngày 25/11/2015, đại tá Hải quân Phạm Thanh Cải tình cờ truy cập vào trang câu đối trên Wikiquote thấy nó quá đồ sộ nên copy lại để chia sẻ cho bạn bè thưởng thức, nhân đó có người là Trankhau cảm nhận: “Công trình của thày PHẠM THANH CẢI sưu tầm và sáng tạo quá đồ sộ! Chưa thể đọc nhiều! Nhưng đã nể sợ! Vậy, Trần mạo muội Kính biếu Thày 1 vế đối để tỏ lòng ngưỡng mộ”:

Vế ra: 雄 龍 達 河 書, 私 恩 何 包 勝 Hùng long đạt Hà Thư, tư ân hà bao thắng? (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nghĩa là: Rồng mạnh được sách Hà Đồ và Lạc Thư, nhớ ơn riêng biết bao là điều tốt đẹp. Vế ra dùng tên riêng của nhóm gồm 10 vị tham gia góp phần biên tập trang “Câu đối và thơ đối đáp”)

Vế đối: 光 福 長 文 賦, 多 懷 英 蟬 隆 Quang phúc trường Văn Phú, đa hoài anh thiền long! (Trần Việt Hà) (Nghĩa là: Tấm lòng sáng chói bao la cùng Văn chương thi Phú, chứa đựng nhiều sự tinh anh làm cho liền lối liên tục, ngày càng tươi đẹp thịnh vượng lớn mạnh…vế đối sử dụng 5 tên hiệu của 5 thành viên của nhóm cộng sự là Quang Phúc Phạm Đình Trung, Trường Văn Nguyễn Phước Thắng, Phú Đa Nguyễn Phước An, Hoài Anh Võ Quang Thạch và Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh để đối với 10 người trong ban biên tập)

Vế ra: Bèo nước gặp nhau, Nặng nghĩa mến tình, Ngàn Dặm giao lưu Trong nể Trọng (Đỗ Đình Bao)

vế xuất này ý nói rằng 2 bên vô tình giống như cánh bèo trôi lang thang trên dòng nước…ban biên tập gặp được những cộng sự nhiệt tình như: Phú Đa Nguyễn Phước An, Trường Văn Nguyễn Phước Thắng, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh, Hoài Anh Võ Quang Thạch, Quang Phúc Phạm Đình Trung và cả nhân vật có biệt danh Cò Con nữa…những cộng sự đắc lực đã hỗ trợ cho ban biên tập xây dựng dự án về trang câu đối và thơ đối đáp đồ sộ này…Từ duyên bèo nước rồi tiếp xúc lâu này biết được tính cách và nghĩa cử của nhau cho mến cảm thấy quý mến…cho dù cách xa hàng ngàn dặm (kẻ ở phương Nam người ngoài đất Bắc) vẫn kết nối giao lưu với nhau trong sự nể phục và quý trọng. Tuy nhiên câu đối này có độ khó là mang tính chiết tự ở cả 2 góc độ chữ Hán và chữ Quốc Ngữ, câu này chiết tự chữ Trọng…chữ 重 Trọng được ghép bởi chữ 千 Thiên (có nghĩa là 1 nghìn) và chữ 里 Lý (có nghĩa là Dặm)…Hai chữ này ghép vào nhau thành chữ Trọng có nghĩa là Nặng, đó là về phía chiết tự chữ Hán…Ngoài ra, chữ Trong thêm dấu Nặng sẽ thành Trọng…như vậy chữ Nặng ở đây lại mang 2 nhiệm vụ, 1 là nặng nhẹ là nghĩa của chữ chiết tự chữ Nho, còn 2 là dấu nặng của chiết tự chữ Quốc Ngữ. Vế đối 1: Ý lời đối ngẫu, Ngang câu đảo chữ, Tám Trò phân tích Bình ra Bình (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Vế đối ý nói rằng: Trong cặp đối (gồm vế ra và vế xuất) hoàn chỉnh thì ý và lời phải đối nhau tương xứng, câu chữ nhiều lúc phải suy luận nghĩ xuôi nghĩ ngược tìm đáp án tốt nhất. Thậm chí phải kết hợp nhiều người có kiến thức (Tám Trò) để cùng phân tích, bình phẩm thấu đáo vấn đề thuộc về nội dung, hình thức, nghệ thuật trong câu đối nhằm mục đích đối chỉnh, tức là “Bình cho ra Bình”. Về chiết tự chữ Hán: chữ Bình (bằng, ngang) nếu quay ngược 180 độ thì có thể tách thành 2 chữ gồm chữ Bát (Tám) và chữ Sĩ (trò, học trò). Về nghĩa Việt thì chữ Bình có nghĩa là Ngang, ở đây có nghĩa là thanh Ngang (không dấu) để đối thanh Nặng, ngoài ra chữ Bình khi không thay đổi thanh (6 thanh trong tiếng Việt: Sắc, hỏi, ngã, nặng, huyền và ngang) thì vẫn là chữ Bình. Chữ Bình ở đây còn có nghĩa: thật ra, nhóm cộng sự gồm Phú Đa, Trường Văn, Thiền Long và Hoài Anh chỉ đáng là “học trò”, năng lực “Bình thường” mà được quý bác trong Ban biên tập quý trọng thì thật là không dám! Vì vế ra quá khó, nên vế đối buộc phải chiết tự theo hướng nghịch (kiểu như chữ Phúc treo ngược) mới đảm bảo đối được câu đối dạng chiết tự bao gồm cả Tiếng Việt và chữ Hán (phải nói đó là một dạng chưa có trong tiền lệ xưa nay). Đây là một sáng tạo độc đáo trong câu đối nước ta! Từ những câu đối phối hợp ăn ý kiểu này, mới thấy Tiếng Việt của dân tộc ta giàu có, sâu sắc và sang trọng hẳn lên, nhất là khi kết hợp chiết tự cả phần Việt và Hán, hơn nữa nó lại được thể hiện dưới dạng thơ lục bát – một bản sắc tuyệt vời của văn chương nước nhà.

Vế đối 2: Mây trời xa cách, Ngang duyên trái phận, Hai Người kết hợp Nhân quý Nhơn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Vế đối nói lên, tuy cách xa không gian, trái ngang duyên phận (chênh lệch về tuổi tác…) nhưng hai bên vẫn kết hợp nhau được nhờ các yếu tố: chúng tôi quý nhơn giúp (chữ nhân trước chỉ nguyên nhân, chữ nhân sau chỉ người) 2. Đôi bên quý trọng nhau (chữ nhân trước và sau đều chỉ về người) chúng tôi đôi bên đều có lòng nhân ái (chữ nhân trước và sau đều chỉ về lòng yêu người – “Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu”). Về khía cạnh chiết tự: Trong chữ Hán, Chữ 仁 Nhơn (lòng thương người, cũng đọc là Nhân) gồm chữ 亻 Nhân đứng (người, cũng đọc là Nhơn) và chữ 二 Nhị (hai). Thanh Ngang là thanh không dấu (đối thanh Nặng trong ngữ cảnh câu này). Ở đây, về chữ Hán hai chữ khác nhau nhưng âm tiếng Việt giống nhau, nhưng Trường Văn xin không dùng giống nhau để hạn chế trùng từ trong câu.

Vế xuất tặng bạn Đào Văn Sáu của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh: “Văn sáu sử mười địa mười hóa chín” (Nghĩa 1/ là bảng điểm các môn. Nghĩa 2/ là môn văn điểm sáu, nhưng vấn đề “sử” (nghĩa như khiến, thuyết phục ai đó) được mười, “địa” (nghĩa như “suy đoán”, “nhận ra” vấn đề ) được mười, “hóa” nghĩa là “thành ra”; “chín” là “chín chắn”, “cứng cỏi”, “đủ”. Tạm dịch nghĩa thoát lên là: Văn sáu điểm và giỏi thuyết phục, giỏi suy đoán thành ra đủ cứng cỏi)

1 – câu đối của Trường Văn Nguyễn Phước Thắng:

Nghĩa là:

Vế 1: Tài văn võ song toàn của Ông làm rạng danh họ tộc giàu lòng nhân ái.

Vế 2: Bậc tài giỏi hơn đời toàn vẹn anh tuấn làm rộng lớn tiếng thơm đức độ của gia đình (Chữ Long Hổ theo từ điển Hán Nôm có nghĩa là bậc tài giỏi hơn đời)

2 – câu đối của Hoài Anh Võ Quang Thạch:

3 – câu đối của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh:

美鶴超生歸樂國 光龍得道會天堂 MỸ HẠC SIÊU SINH QUY LẠC QUỐC QUANG LONG ĐẮC ĐẠO HỘI THIÊN ĐƯỜNG Bóng hạc đẹp đẽ đã siêu sinh về miền Cực Lạc. Rồng tỏa hào quang đắc đạo vừa hội mặt chốn Thiên Đàng. Trước hết phải phân tích hình tượng chim Hạc, trong văn hóa phương Đông nó tượng trưng cho sự trường thọ, cho nên thường có bức tranh gọi là TÙNG HẠC, sự trường thọ của nó sánh ngang với cây Tùng, thành thử người cao tuổi đều được ví là Tuổi Hạc, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: “cỗi xuân tuổi Hạc càng cao” là nói đến ý này vậy. Trong bối cảnh ông Vũ Quang Long là người vừa qua đời cũng đã ngoài 80 tuổi, hơn nữa ông lại là người khoẻ mạnh đẹp lão phong độ đến thanh niên nhiều khi còn không bằng, hơn nữa chẳng bao giờ bệnh tật gì thế nên dùng từ Mĩ Hạc ở đây là quá chuẩn, vừa hay đối với Quang Long là Rồng toả hào quang đồng thời cũng ẩn dụ tên của ông Long thì quả là ăn nhập tuyệt đỉnh vô song…Như vậy vế trên đã chỉ rõ “Bóng Hạc đẹp đẽ đã siêu sinh về miền Cực Lạc” nghĩa là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử để về miền Tây Phương Cực Lạc, tức về cõi Niết Bàn, cõi Phật vậy. Nếu vế trên là chỉ sự thảnh thơi miền Tây Trúc theo Phật Giáo thì vế dưới là sự lên tiên của Đạo Lão bởi chữ đắc đạo ở đây nói đến việc thành Tiên, mà ông Vũ Quang Long ra đi như vậy tuy có phần đột ngột khiến người thân choáng váng nhưng lại là một sự ra đi nhẹ nhàng đó chính là thành Tiên vậy, mà đã lên Tiên giới thì sẽ hội họp với những bạn tiên khác chốn Thiên Đường. Văn hóa phương Đông độc đáo ở chỗ Tam giáo đồng nguyên, các tôn giáo hòa quyện với nhau nhưng bản sắc vẫn không mất, thế nên nói cặp đối này quả thực có 1 không 2 phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của người quá cố.

Bài xướng của Nghiêm Mạnh Hùng (1932 – 2016):

Bài họa của Hoài Anh Võ Quang Thạch:

Bài xướng của Trần Việt Hà:

Bài họa của Hoài Anh Võ Quang Thạch:

Bài họa của Trường Văn Nguyễn Phước Thắng:

Bài xướng của Vũ Quang Long:

Bài họa Trường Văn Nguyễn Phước Thắng:

Bài xướng của Hoàng Thành Ân tự Trọng Khoa:

Bài họa Trường Văn Nguyễn Phước Thắng:

Bài xướng của Trần Việt Hà:

Bài họa của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh:

Bài xướng của Đỗ Đình Bao:

Bài họa của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh (Tạm đặt tên là Mộng):

Bài xướng của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh (Bài có tên là Hiếu – viết tặng anh là Trường Văn Nguyễn Phước Thắng):

Bài họa của Hoàng Thành Ân tự Trọng Khoa:

Bài xướng của Vũ Quang Long (1938 – 2020) với tựa đề Vịnh Ấm Chén:

Bài họa của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh:

Bài xướng của Hoàng Thành Ân tự Trọng Khoa:

Bài họa của Hoài Anh Võ Quang Thạch viết lúc rạng sáng ngày 15/08/2020:

Xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định có chợ Phú Đa thuộc thôn Tân Dân. Thời trước nơi này có đình làng, chợ búa và chùa chiền rất sung túc, tập trung nhiều phú hào địa phương sống xung quanh khu chợ này. Sau bao nhiêu thời gian và sự tàn phá của chiến tranh bây giờ đình làng đã hầu như biến mất chỉ còn hai cây cột đình lẻ loi mang đầy thương tích và đang tàn lụi. Câu đối trên hai câu cột đã bể nát gần hết giờ chỉ còn một chữ “Phú”. Năm 2014, khu chợ này được quy hoạch thành một công viên và người dân muốn phục chế hai cây cột đình kia và cả cặp câu đối mà chữ đầu một bên là chữ “Phú”, đầu một bên khác là chữ “đa”. Sau khi chọn lọc các câu đối gửi về thì họ đã quyết định chọn câu đối của cụ Như Bích Nguyễn Đình Chi, một nhà Nho cự phách trong vùng. Tuy sức khỏe của cụ Như Bích đã yếu nhưng ý tưởng còn khá minh mẫn, tinh thần khá phấn chấn. Bên cạnh là sự tư vấn thường xuyên của Trường Văn Nguyễn Phước Thắng và các góp ý của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đều là con trai cụ:

Các câu đối khác:

và:

Nhân dịp này, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh có cảm hứng làm 1 bài thơ:

Chợ cũ Phú Đa tái lập đình Đại tòa lục giác phát uy linh Bạch lân oai vệ chầu giương vuốt Xích thố nghiêm trang hí trổ mình Chánh điện hào quang hòa diệu chiếu Ngoài sân thế thái thuận an sinh Bảo tồn tín ngưỡng theo truyền thống Hướng thiện cầu tài đắc hiển vinh Trước đây, Trường Văn có bài thơ “Nhớ Phú Đa” được bà con trong làng rất yêu thích, nay xin giới thiệu với quý tao nhân mặc khách:

Mỗi lần về quê nội là ta lại có cái cảm giác bình yên thư thả tột cùng. Cái khung cảnh êm đềm, hiền hòa nơi quê cha đất tổ quả như một liều thuốc có thể phục hồi những vết trầy xước trong tâm hồn sau những va chạm trong cuộc sống. Và nữa, dù ta có nhiều tuổi hơn bao nhiêu, có từng trải sương gió bao nhiêu theo thời gian thì khi đứng trước khung cảnh của hàng rào chè, lũy tre xanh, ao cá nhỏ… vốn đã in sâu trong ký ức, ta tự cảm thấy vẫn luôn là một đứa trẻ tội nghiệp trong khu vườn mát lành của ông bà tổ tiên mình. Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh tập tành sử dụng đường thi “bát láy”, vần “e”, ý diễn tả sự hòa nhịp dần vào cái chầm chậm, thư thả của các sự vật quá đỗi quen thuộc ở khu vườn nhà nội. Dù vẫn chưa đủ tài thơ để diễn đạt hết tâm trạng như mình muốn nhưng cũng phần nào vơi bớt cảm giác nhớ quê: Bài thơ được viết vào ngày 11-09-2016 có nhan đề “Vườn Nhà Nội”:

Trời thu nắng dịu gió se se Bên bếp gà giò gáy tẻ te Vườn mát tre ru lời kẽo kẹt Hoa thơm ong bận tiếng vo ve Dây trầu quấn quýt vươn mơn mởn Chú cún loanh quanh trố rụt rè Kí ức ùa về lòng nhẹ nhõm

Bài họa của Vô Thường mang tên Đêm Thu:

Bài họa của Hoài Anh Võ Quang Thạch:

Bài họa của Lý Hồng Đức:

khiên cưỡng vợ chồng đến khi già gò ép những thói hư tật xấu để sống với nhau

Năm 2012, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh cùng bạn thân là Đặng Thế Vinh đi máy bay sang Trung Quốc công tác. Trong chuyến đi của đoàn đang ngồi bàn tán phong cảnh rôm rả, người thầy dạy tiếng Hoa kiêm thông dịch viên tên Xuyên đang nói về các địa danh núi của TQ như núi Thái Sơn, Võ Đang…Và cảnh đẹp với hình tượng mây và núi cao quấn quýt nhau, Thiền Long mới thốt lên tứ thơ: “núi ấp ôm mây, mây ấp núi” và định làm một bài tứ tuyệt. Lúc đó Đặng Thế Vinh cũng đưa vế ra đối: “Núi Võ Đang còn đang e ấp”…do lúc đó đang ở trên máy bay, sức khoẻ cũng hơi kém nên Thiền Long chưa nghĩ ra vế đối lại, khất bạn vào một dịp khác. Sau đó, do công việc tất bật nên quên bẵng chuyện này đi. Đến năm 2014, người Trung Quốc lắp đặt trái phép dàn khoan Hải Dương-981 (“HD-981”) trong phạm vi chủ quyền lãnh hải của Việt Nam. Chính quyền Việt Nam sử dụng biện pháp mềm dẻo bao nhiêu thì cách hành sử của người Trung Quốc ngược lại bấy nhiêu, hung hãn dùng vòi rồng phun vào các tùa của Việt Nam bất chấp dư luận quốc tế. Thế là Thiền Long nhớ lại câu chuyên đó liền nhắn tin cho bạn đề xuất chỉnh sửa phần đuôi cho phù hợp với thời cuộc mà nảy ra vế xuất này dựa vào ý trong câu nói của người bạn thân Đặng Thế Vinh:

Từ ngày 6/4/2016, các hộ nuôi trồng thủy sản ở vùng Cảng Sơn Dương (Khu Kinh tế Vũng Áng) phát hiện cá chết bất thường. Hiện tượng này nhanh chóng lan ra các vùng biển lân cận khác tại Kỳ Lợi, Kỳ Hà, Kỳ Phương, Kỳ Nam (thị xã Kỳ Anh) với thiệt hại thống kê được khoảng 70 tấn, trong đó có 7 tấn tôm nuôi, 60 tấn nghêu và 2,1 tấn cá các loại. Riêng về cá tự nhiên, chưa thể thống kê đầy đủ nhưng theo kinh nghiệm của người dân địa phương những loại cá chết trôi dạt vào bờ chủ yếu nằm ở tầng đáy. Nhân tính thời sự nóng hổi của vùng biển Hà Tĩnh, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh nảy ra 1 vế xuất như sau:

Nhân sự kiện động thổ hầm đèo Cả trên tuyến quốc lộ 1A, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đưa vế ra nhắc đến khúc cua Đá Đen là một trong những khúc cua nguy hiểm nhất của đèo Cả thuộc khu vực giáp ranh hai tỉnh Phú Yên-Khánh Hòa. Bởi địa thế hiểm trở, nơi đây từng là chiến trường khốc liệt của các cuộc chiến giữa hai nước Đại Việt và Chiêm Thành, giữa hai chế độ Nguyễn Ánh và Tây Sơn và giữa hai lực lượng Pháp và Việt Minh… Hiện giờ chúng ta đã có hầm đường bộ qua đèo an toàn hơn, và có lẽ mọi người sẽ rất hiếm khi đi ngang cua Đá Đen này nữa. Nhưng đây là một địa danh ấn tượng đã in sâu trong tâm trí bao nhiêu thế hệ người đi đường ngang qua, những người từng sống và chiến đấu tại khu vực này từ khi Pháp xây dựng đường đèo Cả. Được khởi động từ năm 2010, tổng chiều dài toàn tuyến của dự án Hầm đường bộ Đèo Cả dài trên 13 km với tổng mức đầu tư dự án gần 11.400 tỉ đồng. Riêng Hầm Đèo Cả chính thức thi công từ đầu tháng 1-2014, được ngày 4 nhà thầu tham gia thi công. Sáng 31-7-2016, Bộ Giao thông Vận tải và Công ty CP đầu tư Đèo Cả tổ chức lễ thông hầm đường bộ qua Đèo Cả. Ngày 31/8/2016 vế xuất này mới được công khai tới các độc giả và thi hữu:

Cứ chiều chiều, lái xe chở hàng thường tạm ứng tiền xe làm Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh nảy ra vế đối hay:

Nhân đọc bài “Dân phẫn nộ vì phí giao thông còn đắt hơn nhiên liệu” trên báo Tuổi Trẻ và nghĩ đến mức thuế, phí nhiều hơn gấp đôi giá bán ban đầu của một chiếc ô tô nhưng chất lượng hạ tầng giao thông lại yếu…Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh “than thở” một vế ra mang chút tính thời sự:

Các câu đối tưởng niệm vua Quang Trung:

Càn khôn nhất cuộc thao tinh tú (vũ trụ một lúc thao luyện các ngôi sao tinh tú của mình) “Áo vải cờ đào, hào khí ngút trời, dẹp loạn giệt gian trừ giặc dữ

Câu đối vịnh 2 chữ Song Hỷ:

Câu đối tự nhắc nhở rèn luyện:

Câu đối nói về chủ trương luôn chủ động giao thiệp khi tham gia hoạt động kinh doanh:

Câu đối mừng xuân Ất Mùi (2015):

Câu đối kính dâng đức Phật Thích Ca:

Câu đối về những vật có cùng chủng loại:

Vế xuất sử dụng địa danh tách thành 2 danh từ độc lập:

Câu đối tết Đinh Dậu (2017):

Vế ra: HOA KỲ TRUNG HOA KỲ(Thiền Long)(Viên ngọc quý (danh từ “kỳ” 琪) đẹp (tính từ “hoa” 华) ở trong (tính từ “trung” 中) nước Mỹ (Hoa Kỳ). Lá cờ người hoa (hoa kỳ 旗) ở trong (tính từ “trung” 中) nước Mỹ (Hoa Kỳ). Nước Mỹ (Hoa Kỳ) và nước Trung Hoa cùng nhạo báng (động từ “kỳ” 娸). Nước Mỹ (Hoa Kỳ) hết lòng (động từ “trung” 忠 ) vì nước Mỹ (Hoa Kỳ) Vế đối: LI BĂNG MA LI BĂNG (Thiền Long)(Tiền (dt “băng” 鏰) đẹp (tt “li” 麗) bé nhỏ (tt “ma” 么) (ở) nước Li Băng. Túi (dt “băng” 掤) của Triều Tiên ( “li” 麗 viết tắt của Cao Li 高麗) bé nhỏ (tt “ma”么) (ở) nước Li Băng. Nước Li Băng và nước Ma Li ràng buột nhau (đt “băng” 絣). Li Băng rèn luyện (đt “ma” 摩) Li Băng. Ngoài ra còn các vế đối có thể nghiên cứu thêm là : “NAM PHI VIỆT NAM PHI”; “NAM HÀN VIỆT NAM HÀN”; “LI BI MA LI BI”; “BA LAN CU BA LAN”…)

Thiển ý: Thiền Long cho rằng để đối cân vế ra chơi chữ thì ngoài các thỏa mãn ngữ pháp thì phải sử dụng cùng từ loại. Ví dụ vế ra có tên các quốc gia thì vế đối cũng phải sử dụng tên quốc gia để đối mới chuẩn, yếu tố bằng trắc có hệ số ít quan trọng hơn trong các vế ra có cách chơi chữ lắt léo, sử dụng điệp từ… Vế ra có kèm phân tích thì vế đối cũng nên phân tích ngữ pháp tương đương để người đọc có thể hiểu thêm vế đối rõ ràng. Vế đối khác: LONG PHÚC HẠ LONG PHÚC (tranlap7623)(隆 福) 下 Long Phúc (龍’s 幅) 下 Long Phúc (Long Phúc + Hạ Long) 覆 Long Phúc 賀 Long Phúc (xã Long Phúc – huyện Bảo Yên – tỉnh Lào Cai)

Ở tỉnh Hải Dương có huyện Kim Thành, trong huyện Kim Thành có xã Kim Lương, dưới xã Kim Lương có thôn Cổ Phục (hiện đã được chia thành Cổ Phục Bắc và Cổ Phục Nam). Gần đây có 1 vế xuất khá hóc búa mang tên những địa danh này:

Vế ra: CAO THẾ CAO THẾ (Thiền Long) (Ý nghĩa của vế ra có thể sử dụng cho ba ngữ cảnh sau : 1/” Điện cao thế có mức hiệu điện thế cao thế”;2/” Trụ điện cao thế được đặt ở vị trí cao thế”;3/” Đánh nước cờ cao thế ! hay thế !”).

Vế đối: TRƯỞNG CHI TRƯỞNG CHI (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (1.Ông (bà) trưởng chi (nầy)lớn nhất trong các chi cục, chi nhánh. 2.Ông (bà) trưởng chi làm to lớn mà chi 3. To lớn mà chi, to lớn mà chi (lời than, hoặc ý khiêm nhượng, thoái thác).

vế ra: Cô cả cổ ca ca cổ (Thiền Long). Cô cả: danh từ chung, Ca Cổ cũng là danh từ.

vế ra: Tết tới, tinh thần thật thân tình tiếp tình thân (Thiền Long) (vế ra này viết vào dịp tết Giáp Ngọ 2014)

vế đối: Thơ thăm, thiên tư thảo tiên thư tựa thư tiên (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Đồng đạo đắc đạo đàm đạo đại địa đạo (Thiền Long)(Nghĩa các từ láy theo từ điển: “Đồng đạo”: danh từ chỉ người theo cùng một đạo; động từ “đắc đạo”: đạt tới chỗ cao thâm của đạo; động từ “đàm đạo”:trò chuyện thân mật cùng nhau; danh từ “địa đạo”: đường hầm trong lòng đất, vd: địa đạo Củ Chi; ý khái quát vế ra là: những người uyên thâm có chung đạo đang trao đổi thân mật dưới lòng đường hầm lớn)

vế đối: Chú Trâu Sắt đúng Công Nông, Cày như Cành Cạnh ít công nhiều lời (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Trâu Sắt, Công Nông, Cày và Cành Cạch đều chỉ máy cày)

vế ra: Mặt sáng óc sáng tâm tối thành tăm tối (Thiền Long) (Ý phê phán người học thức nhưng làm việc xấu)

vế ra: Cu đồng cườm cổ vàng au (Thiền Long) (Cu là ký hiệu của nguyên tố Đồng, Cu Đồng là cách gọi khác của chim Cu Cườm, Au là kí hiệu nguyên tố Vàng; theo từ điển: au là tính từ nghĩa màu sắc tươi ửng, thường là đỏ au hoặc vàng au. Ví dụ từ điển: quả cam vàng au).

vế đối: Li đá thạch chè tím i (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Li là ký hiệu nguyên tố Liti, xuất phát từ tiếng Hy Lạp “Lithos” có nghĩa là “đá”. I là ký hiệu nguyên tố I ốt, xuất phát từ tiếng La Tinh “Iodes” có nghĩa là “tím”. Thạch trong chữ Hán có nghĩa là đá)

vế ra: Lãnh chúa dẫn các đầu lãnh xâm nhập lãnh thổ chúa công, bắt cóc công chúa về giam trong lãnh cung của phủ chúa. Chúa công bằng bản lãnh cầm quân đã lãnh đạo các tướng lãnh lãnh binh vào lãnh địa lãnh chúa, tấn công thành lãnh chúa thành công, giải cứu công chúa, diệt lãnh chúa và tất cả thủ lãnh của hắn (Thiền Long)

vế đối: Quốc sư mời cả tướng quốc viếng thăm quốc duệ sư thái, cung thỉnh thái sư ra trị ngoài quốc ngoại thuộc mẫu quốc. Sư thái cùng khai quốc đại thần đang quốc hữu mấy bang quốc quốc bảo tặng quốc chương quốc sư, an thái vận quốc sư vận thái, hổ trợ thái sư, giúp quốc sư cùng một số dân quốc thuộc ông (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Yêu cha mẹ chồng, ông cha mẹ chiều (Thiền Long)

vế đối: Ghét anh em vợ, ghệ anh em quét (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ghệ đọc như ghợ, có nghĩa như ghẹ là bồ nhí)

vế ra: Xuân mới, người cũ áo mới người mới áo mới, thế mới mới! (Thiền Long).

vế đối: Tế xưa, người nay áo xưa người xưa áo xưa, thật xưa xưa! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Ní ná na ná nấn ná (Thiền Long) (Nghĩa từ láy: “ní ná” là cách gọi “anh em kết nghĩa thân thiết” của người miền tây nam bộ; “na ná” (tính từ)có nghĩa là gần giống nhau; “nấn ná” (động từ): cố ý nán lại; nghĩa của vế ra miêu tả là: anh em kết nghĩa nhìn cũng hơi giống nhau đang cố nán ngồi lại với nhau)

vế đối: Đai đẳng đồng đẳng đeo đẳng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Đai đẳng: Từ chỉ anh em học võ gọi nhau, đồng đẳng: đẳng cấp như nhau, đeo đẳng: theo đuổi mãi, không dứt ra được)

vế ra: Đối sĩ cân đối chữ, đối cân câu đối nặng cân (Thiền Long) (Chữ “cân đối” là động từ ghép nghĩa là làm cho tương xứng; chữ “cân” trong “đối cân” là tính từ, “đối cân” nghĩa là đối cho tương đương giữa vế ra và vế đối, chữ “nặng cân” là tính từ ghép đồng nghĩa với từ “nặng ký” nghĩa là “khó”; chữ “đối” trong chữ “đối cân” là động từ. “Câu đối” là danh từ ghép)

vế đối: Ca nhi đồng ca nhạc, ca đồng bài ca xanh đồng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Đất Lào Cai lài lài cao cao, lên Lào Cai cai thuốc lào, uống lài vùng cao (Thiền Long)

vế đối: Đường Sông Cầu cồng cồng sâu sâu, xuống Sông Cầu cầu thần sông, nghe cồng miền sâu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Vế ra: ” Lo đục khoét đến loét đục kho, kho đã đục loét càng thêm loét” (đục có hai nghĩa: động từ đục khoét và tính từ đục (nghịch nghĩa với “trong”) (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)

vế đối: Sợ thâm thụt qua sụt thâm thợ, thợ đang thâm sụt đâu bớt sụt (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

Vế ra vui xuân Ất Mùi 2015: Tết Mùi, thân thể tốt mã, kê bàn thắp đèn cầy cúng thần, sao Kim Ngưu xa trông tí tị, thố thịt lợn chín dần dần . (Thiền Long) (Chú thích: 12 con giáp: {Mùi: dê / thân: khỉ / mã: ngựa / kê: gà / cầy: chó / thần: rồng (nghĩa hán việt thần là thìn chi thứ 5 trong 12 chi) / Ngưu: trâu / tí: chuột / tị: rắn / thố: mẹo, thỏ ( con giáp “thố” tương đương “mẹo”); thố còn là cái nồi nấu ăn / lợn:heo/dần:cọp;)

Vế ra: Sông Hàn ở Hàn Quốc nước lạnh (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)(“Sông Hàn” là danh từ riêng (chỉ tên con sông ở Seoul, Hàn Quốc). “Hàn Quốc” là danh từ riêng. Nghĩa Hán-Việt: “quốc”=”nước” ; “hàn”=”lạnh”. “nước” có hai nghĩa danh từ : “nước” (vd: như nước sông) và “quốc gia”. Vế ra có thể hiểu hai nghĩa hợp lý: Nghĩa thứ nhất ý nói nước của sông Hàn ở Hàn Quốc rất lạnh; Nghĩa thứ hai xác định con sông Hàn ở quốc gia lạnh lẽo Hàn Quốc)

Vế ra: “VÒ VẼ VUỐT VE” (Thiền Long) (phân tích độ khó: 1/ Ong vò vẽ đang vuốt con ve (con ve là con mồi nằm trong tay con ong vò vẽ). 2/ Ong vò vẽ đang vuốt ve (vuốt ve là hành động bình thường, như ong vuốt ve cái miệng chẳng hạn). 3/ Cái vò được vẽ cái vuốt của con ve (ve có cặp chân trước rất cứng, có vuốt). 4/ Bốn phụ âm đầu đều là điệp âm đầu mang chữ “V”. 5/ Vò, ve đều đựng rượu (Vò rượu, ve rượu)

Vế đối: RỒNG RỘC RÍU RÍT (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Con chim Rồng Rộc đang “ríu” con Rít (rết) rõ nghĩa hơn là con chim rồng rộc đang tha con rết. “Ríu” Là động từ quấn rít lại. Con chim Rồng Rộc tiếng kêu nghe ríu rít (ríu rít là từ láy tượng thanh). Bốn phụ âm đầu đều là chữ “R”)

Nhân khi ông Hoài Anh Võ Quang Thạch có sưu tầm được món đồ cổ quý giá, ông Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh có đưa ra vế xuất hóc búa như sau:

Nhân cảm hứng chuyến đi công tác của danh nhân Hoàng Minh Tuyển, nghĩ đến thành ngữ “hạ cánh an toàn”. Gần đây có chuyện tưởng “hạ cánh an toàn” là đã êm như thường thấy bấy lâu nay nhưng ko ngờ lại còn bị “cách chức”, “xóa tư cách”… làm cho một số người lo lắng dù là đã, đang hay sắp “hạ cánh”. Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh có đưa ra vế xuất:

Đá gà ngày tết cũng là một trò chơi dân gian truyền thống có từ lâu đời. Thú vui đá gà ngày nay cũng có nhiều hình thức trong đó có những biến tướng thành các loại hình cá độ lẩn khuất đầu xóm cuối làng không có hồi kết…Một anh bạn nông dân kể vui về những lần tham gia xới đá gà ăn tiền, như là khi anh bị công an đuổi bắt đúng lúc gà của anh vừa chiến thắng, chưa kịp thu tiền thắng cá độ đã phải chạy vứt cả gà cả xe máy mà nhảy cả xuống sông để lặn trốn. Hay những trận đấu dành cho gà mà do mâu thuẫn lại trở thành trận hỗn chiến của các chủ gà với nhau…Thường khi tới vụ mùa thu hoạch lúa, anh trả nợ nần cho các nhà cung cấp rồi chọn mua các vật tư nông nghiệp, lúa giống về để cải tạo đất và gieo sạ lại vụ mới. Riêng vụ đông – xuân cận tết cổ truyền, ngoài các loại vật tư nông nghiệp thông thường anh còn phải dành một khoản tiền để mua thêm một số gà nòi về dưỡng để chơi hoặc bán lại trong dịp tết. Và tết nào anh cũng tham gia đá gà như là một thú mê không bao giờ chán. Cấm thì cấm, chơi vẫn cứ chơi. Nhân dịp được nghe những câu chuyện đá gà tiếu lâm từ anh nông dân và năm mới con gà Đinh Dậu 2017 đã đến trước thềm nhà. Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh nảy ra vế đối để chào mừng xuân:

vế đối 1: ĐẾN NĂM THÂN. PHÊ TRỒNG LẠI CÀ VƯỜN. COI KHỈ XIẾC NGỒI CỌ TỚI HẦU (Lý Hồng Đức)(năm thân người có tên là phê nhổ cà phê trong vườn trồng lại cà mới, coi con khỉ của đoàn xiếc cầm dao cọ vào miệng. Lúa xay ra gạo, Cà uống vào thì phê, Dậu gà, thân khỉ. lúa thóc, cà cọ. dậu giậu, thân hầu, hầu = miệng. Ở vế ra 15 chữ có “dậu”=”kê”=”gà”, “dậu”=” giậu” nên tương ứng vị trí (3)=(6)=(10), (3)=(15). Ở vế đối tương ứng: “Thân”=”lại”=”khỉ”. Có “thân”=”khỉ” là quá chuẩn nhưng chữ “lại”=”khỉ”, “lại”=”thân” hình chưa ổn lắm) vế đối 2: ĐẾN NĂM THÂN PHÊ BAO HẦU CÀ NHÀ COI KHỈ XIẾC NGỒI CỌ KHẮP MÌNH (Lý Hồng Đức)(vế đối không lỗi nhưng đọc lên nó không hay, con khỉ cọ khắp mình thì có gì để chúng tôi khỉ cầm dao cho vào miệng con dao dài tới iết hầu cũng đáng coi lắm chứ…hơn nữa trồng lại cà thì ai cũng biết còn bao hầu thì hơi khó hiểu) vế đối 3: XA NĂM TÝ, NỒI CĂM PHẪN NẮP BI, LÙA CHUỘT CỐNG CHẠY VUNG QUA TÍ (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Tý = Chuột = Phẫn (là con chuột cống). Nắp = Vung = Phẫn(theo từ điển tiếng Việt là cái vung cái nắp, nồi nào phẫn ấy) Nồi đi cặp với Vung, nắp, phẫn. Bi = cống, Nắp bi; Chuột Cống; căm phẫn, Phẫn là động từ uất, tức. Tý đồng nghĩa với Tí ở chỗ là cái vú, Tí = Vú. Ý vế đối đã qua năm chuột rồi mà lũ chuột vẫn cứ phá nồi niêu chảo chõ cũng không tha nên anh nồi phẫn uất bực vì cái nắp bi không kín để lũ chuột phá phách nên lùa lũ chuột cống chạy loạn xạ tông cả vào vú. Cái nắp thường thường người ta dùng đậy kín cái lỗ hở lại nếu hộp thì gọi nắp hộp, nồi thì gọi nắp nồi, cống thì gọi nắp cống và bi thì gọi nắp bi) vế đối 4: TỚI XUÂN MÙI, MÂY THÊM VỊ SƯƠNG MAI, MỜI DÊ CỤ CHẠY BĂNG HƯỚNG DƯƠNG (Hoàng Minh Tuyển) vế đối 5: ĐÓN XUÂN DẦN, ẾCH HÙNG HỔ CÓC TÍA, GIẾT CỌP VẰN QUĂNG TỌT XUỐNG GIẦN (Tiêu Tường)(DẦN=HỔ=CỌP. ẾCH, CÓC, TỌT cùng loài. “lúa”=”thóc”; “hạt lúa”=”hạt thóc”, là chính nó…. còn “ếch” chỉ là ếch, có hình dáng kích thước và tiếng kêu và chu kỳ sinh trưởng hoàn toàn khác so với “nhái” (tọt) vế đối 6: CẬN GIỜ THÂN, NAM PHỤNG HẦU CÔNG QUẢ, CHO KHỈ ĐỘT ĐU BÁ VÀO THÂN (Hàn Phong)(5 tước thời phong kiến: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam) vế đối 7: XA NĂM TÍ, CÚN THÁCH THỬ CHÓ TRẮNG, BẮT CHUỘT BẠCH KÉO CẦY DƯỚI VÚ (Tiêu Tường)(1/ “TÍ” (con giáp bắt buột)=”CHUỘT”=”THỬ” , “TÍ” có đồng nghĩa với ” VÚ” (ở nhánh nghĩa VÚ MẸ). Vị trí các dt đồng nghĩa : (3)=(6)=(10); đồng thời (3)=(15). 2/”CHÓ”=”CẦY”; “CÚN” = “CHÓ CON”. Vị trí dt (7)=(13) ; (4) được SINH RA từ (7). 3/ “BẠCH”=”TRẮNG”. vị trí dt (8)=(11). Thường thì ta dùng “thử thách”, ở đây dùng “thách thử” nghe trái trái nhưng cũng tạm chấp nhận được. Tuy nhiên từ ghép “cắn cẩu” thì gượng vì chưa thấy ai từng dùng và “cẩu” xét ở nghĩa thứ hai là động từ chưa thể đối nghĩa 2 là tính từ “thóc”, “mực” thì không hẳn bằng “đen” vì mực có đủ màu dù thường là màu xanh đậm) vế đối 8: XA NĂM THÂN, ẤM SUY TÔN BÌNH PHONG, CHUYỆN KHỈ GIÓ LUẬN SIÊU QUÊN MÌNH (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Thân= Tôn= Khỉ ;Tôn chính là con Khỉ. ẤM = BÌNH= SIÊU, Cái ấm còn gọi cái siêu cái bình, Tôn cũng là cái chén chung dòng với ấm bình siêu. Thân = Mình, Bình Phong; khỉ gió ; phong= gió) vế đối 9: KẾ XUÂN NGỌ, HỢI GIẢI MÃ HEO CON, THÚC CÂU TỬ QUA ĐỒN TỚI TRƯA (Minh Tran)(Vế đối rất logic, các đồng nghĩa chuẩn. Tuy nhiên thường thì ta thấy họ dùng “mã tử” chứ chưa thấy “câu tử” vì “câu” vốn chuẩn nghĩa thì đã là “con ngựa non”, nhưng cũng chấp nhận được. Chỗ dt “đồn” chưa thể đối chuẩn chữ tính từ “thóc” và nghĩa câu còn hơi gượng chỗ “giải mã heo con”) vế đối 10: CẬN XUÂN MÙI, NGUYỆT TUYÊN DƯƠNG THỎ NGỌC, NUÔI DÊ CỎ NHƯ HẰNG Ủ HƯƠNG (Phu Quy Dang) vế đối 11: CẬN XUÂN THÂN, VIÊN PHONG HẦU VƯỢN CHÚA, LỆNH KHỈ VƯƠNG LÀM TÔN THẾ THÂN (Đặng Thế Vinh) vế đối 12: KẾ XUÂN HỢI, DẦN THỦ THỈ CỌP CON, QUAY LỢN TƠ NẰM KỄNG CHUỒNG HEO (Minh Tran) vế đối 13: ĐẾN NGÀY CHA, CHI CÔNG BỐ HỌ HÀNG, GIAM PHỤ TRƯỞNG MỜI NGÀNH KIỂM TRA (Nguyễn Văn Luyện)(vế đối này tuy hay nhưng chưa đạt chuẩn vì đã đối Xuân thì buộc phải dùng con giáp thì mới chỉnh) vế đối 14: ĐẾN NĂM DẦN, RỒNG KHÔNG HỔ LONG THẦN, GIAM CỌP CÁI GIÒ THÌN ÚP GIẦN (Nguyễn Văn Luyện)(vế đối chuẩn “dần=hổ=cọp”; “long=thìn” , “rồng” từ “long” (chấp nhận được). Nhưng còn “giống”(8)=”nòi”(11) tương ứng với “thần”=”cái” thì chưa ổn ạ. Và huynh xem lại chỗ từ tt ghép “không hổ” đối động từ “kiểm kê”. Và phần nghĩa của câu “…giam cọp cái giò thìn úp giần” có vẻ chưa rõ nghĩa hợp lý lắm)

Đúng 15 giờ ngày 01/01/2017, chiếu đối sẽ thông báo một vế thách mới để dành riêng cho các cao thủ đạt giải nhì kỳ này để tìm một người chiến thắng duy nhất. Chỉ là nội dung vế đối, chiếu không thông báo các khóa nữa mà người tham dự tự nhận ra và giải quyết vấn đề.

Các cao thủ đạt giải nhì gửi câu ứng đối là trước 09 giờ ngày 02/01/2017. Cách gửi là gửi tin nhắn Face Book riêng đến FB của Thiền Long.

Đến 16 giờ ngày 02/01/2017, chốt lại số like đã có, căn cứ trên số like hợp lệ thì vế đối nào có like nhiều nhất sẽ là vế đối chiến thắng. Lúc đó Thiền Long sẽ thông báo tên tác giả kèm theo từng vế đối và chiếu đối sẽ chuyển phần thưởng đến cho người chiến thắng.

Kết quả cuối cùng, theo công bố của chủ chiếu Thiền Long và hội đồng giám khảo chiếu đối, ông Hoài Anh Võ Quang Thạch đã may mắn được giải quán quân và giành phần thưởng

Sáng ngày 17/1/2017 có người xin Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh câu đối 5 chữ trong đó phải có chữ Xuân và chữ Phúc ở đầu:

vế xuất: XUÂN…… (5 chữ) vế đối: PHÚC…… (5 chữ)

Hữu Quyến Nguyễn

XUÂN LAI, XUÂN VẠN THỦA

PHÚC ĐÁO, PHÚC MUÔN ĐỜI

Hàn Phong

Xuân an tiền tài rộ

Phúc mãn tử tôn đầy

Võ Thạch

XUÂN XANH VÔ VẠN KIẾP

PHÚC ĐỎ TỌA MUÔN ĐỜI

Phước Thạnh Nguyễn

XUÂN ĐÁO THỜI CƠ THỊNH

PHÚC LAI VẬN MỆNH HƯNG

Minh Tran

XUÂN THẮM CHỒI BÚP NỤ

PHÚC NGỜI PHÁT MỪNG MAY

Lý Hồng Đức

XUÂN VỀ CẦU PHÚ QUÝ

PHÚC ĐẾN ƯỚC THANH TÂN

Hoàng Minh Tuyển

XUÂN VỀ CẦU PHÚ QUÝ

PHÚC ĐÁO MÃN VINH HOA

Hoàng Minh Tuyển

XUÂN TRƯỜNG NIÊN VẠN HỘ (Xuân kéo dài quanh năm cho vạn hộ)

PHÚC THẶNG NHẬT THIÊN GIA (Phúc gia tăng mỗi ngày đến muôn gia)

Nguyễn Văn Luyện

XUÂN SANG THÊM PHÚ QUÝ

PHÚC ĐẾN ĐƯỢC AN KHANG

Nguyễn Văn Luyện

XUÂN VỀ VUI ĐOÀN TỤ

PHÚC ĐẾN SƯỚNG VỠ ÒA

Hoàng Trọng Khoa

Xuân về cờ thêm phú

Phúc đến ân bớt xu

Nguyễn Văn Luyện

XUÂN VỀ VUI TRĂM HỌ

PHÚC ĐẾN MÃN VẠN NHÀ

Tiêu Tường

XUÂN VỀ MANG HẠNH PHÚC

PHÚC ĐẾN CHỞ YÊU THƯƠNG

Tạ Văn Hoành

XUÂN LAI BỪNG CON LẠC

PHÚC ĐÁO RẠNG CHÁU HỒNG

Võ Thạch

XUÂN LẠC CHỈ NHẤT THỜI

PHÚC AN LUÔN TRƯỜNG CỬU

Hoàng Minh Tuyển

XUÂN LẠC MÃI MUÔN ĐỜI

PHÚC AN LUÔN TRƯỜNG CỬU

Hàn Phong

XUÂN LẠI TÀI LỘC TIẾN

PHÚC ĐÁO THỌ KHANG TRƯỜNG

CÂU ĐỐI TẾT CÓ THƯỞNG KỲ II (ra mắt công chúng vào ngày rằm tháng Giêng xuân Đinh Dậu):

vế xuất: TẾT, DẬU NHẬU GÀ ĐỒNG, HÚT XÌ GÀ, KÊ DĨA GÀ BÀI XÌ DÁCH. GÀ KÊU “CÚC CÚC” ẤP CON BÊN KHÓM CÚC (Thiền Long)(CÁC LƯU Ý: Có những thứ nói về gà mà lại không phải gà. Bài xì dách ở miền trung gọi là bài xì lát, khi chơi thường được kê trên dĩa và rút bài từ phía dưới xấp bài 52 lá. Có hai nhóm khóa: nhóm khóa 01 quan trọng hơn có điểm số gấp đôi nhóm khóa 02. Người chơi tự phân tích từ ngữ để tìm các khóa ẩn trong vế ra và tham gia gửi vế đối tương xứng từ loại và ngữ nghĩa. Cơ cấu giải thưởng gồm: Người đạt giải nhất sẽ được chúc mừng và được trao một chiếc bình được làm bằng loại gỗ đổi màu quý hiếm đang có độ “hot” hàng đầu như hình kèm theo (kích cỡ: cao 0.36 mét, đế rộng 0.18 mét, nặng 1,5 kg) và kèm theo một bao lì xì Mừng Xuân trị giá 500.000 đồng. Một giải nhì dành cho câu đối có bình chọn FB nhiều nhất sẽ nhận được một bao lì xì Lộc Xuân trị giá 1.000.000 đ. TRÌNH TỰ CÁC BƯỚC ĐƯỢC THỰC HIỆN NHƯ SAU: BƯỚC 1: FB X : Vào lúc 09 giờ 00 THỨ BẢY ngày 18/02/2017, chiếu đối sẽ thông báo tên người tổng hợp các vế đối Facebook có tên là X, tạm gọi tắt là FB X (tổng hợp riêng để tăng tính khách quan). Từ đó, trong vòng 30 phút từ lúc 09 giờ 00 phút đến 09 giờ 30 cùng ngày, người chơi vui lòng gửi nội dung câu đối dự thi của mình và tên của mình bằng tin nhắn FB đến FB X đó. Người X muốn tham gia giải đối cũng sẽ gửi nội dung câu đối đến FB Thiền Long (TL) ngay trước khung thời điểm nêu trên (trước 9 giờ, 00 nhằm khẳng định thời gian tham gia hợp lệ). Xin lưu ý những người gửi tin nhắn FB đến FB X ngoài khung thời gian 30 phút nêu trên sẽ bị loại. Nhật ký tin nhắn sẽ được lưu lại theo thời gian và có thể được kiểm chứng khi cần thiết. BƯỚC 2: ĐĂNG ĐÁP ÁN: Ngay sau đó, từ lúc 09 giờ 30 đến 09 giờ 45 phút THỨ BẢY ngày 18/02/2017 , chiếu đối TL sẽ thông báo đáp án các khóa chính của vế đối. BƯỚC 3: ĐĂNG CÁC VẾ ĐỐI: Ngay sau khi chiếu đối Thiền Long đã thông báo các khóa chính thì từ 09 giờ 45 phút đến 10 giờ 15 phút CÙNG NGÀY , FB X sẽ đăng các vế đối có thay đổi trật tự thời gian gửi của người gửi, thay đổi cả trât tự thời gian gửi của vế đối của FB X. NHƯNG CHỈ ĐĂNG NỘI DUNG VẾ THÁCH VÀ VẾ ĐỐI THÀNH CẶP BẰNG CHỮ IN HOA MÀ KHÔNG KÈM TÊN CÁC TÁC GIẢ KÈM THEO. BƯỚC 4: KẾT QUẢ : Sau khi FB X đăng đủ vế đối, chiếu đối sẽ áp dụng đáp án đã đăng sẵn trước đó để tra cứu các vế đối. Đến 13 giờ cùng ngày , chiếu đối Thiền Long sẽ nhận xét điểm của các vế đối dựa trên đáp án đã công bố để tìm ra :

+ 01 người đạt giải nhất cuộc thi là người mở hết các khóa và nội dung ngữ cảnh vế đối có thể diễn ra trong thực tế hợp lý. Một giải nhất sẽ được chúc mừng và trao một chiếc bình kích cỡ được làm bằng loại gỗ đổi màu quý hiếm (kích cỡ: cao 0.36 mét, đế rộng 0.18 mét, nặng 1,5 kg), kèm theo một bao lì xì Mừng Xuân trị giá 500.000 đồng. Những người vào vòng 2 đấu loại trực tiếp tranh giải nhì bình chọn: Cách thực hiện là chọn 3 người có vế đối chưa đủ điều kiện đạt giải nhất nhưng có những vế đối đạt điểm cao nhất để thi đấu vòng hai, đấu loại trực tiếp, dù cho trong ba người này có các mức giải khóa ít nhiều chênh lệch nhau. CHÚ Ý : Sau khi chiếu đã chọn và công bố vế đối được giải nhất và những vế đối sẽ đấu loại tranh giải nhì thì FB X mới ĐĂNG TÊN TÁC GIẢ KÈM THEO TỪNG VẾ ĐỐI LÀ AI. BƯỚC 5: GIẢI NHÌ BÌNH CHỌN: “Sau khi chiếu đã chọn và công bố vế đối được giải nhất và ba người đấu loại tranh giải nhì thì vào lúc 13 giờ 30 phút cùng ngày THỨ BẢY ngày 18/02/2017, chiếu đối TL sẽ ra một vế ra mới dành riêng cho 3 thí sinh vòng 2, và vào lúc 08 giờ đến 08 giờ 30 phút ngày chủ nhật 19/02/2017 chiếu đối sẽ thông báo tên Facebook của người tên Y (gọi tắt là FB Y) để từ 08 giờ 30 đến 08 giờ 45 phút cùng ngày CHỦ NHẬT 18/02/2017 ba thí sinh gửi câu đối bằng tin nhắn FB đến FB Y đó. Ngay sau đó chiếu TL sẽ thông báo khóa đồng thời FB Y sẽ giấu tên và công bố 3 vế đối lên trang như cách làm ban đầu. Căn cứ khóa của chiếu và nội dung vế đối đã đăng lên, kính nhờ mọi người xem xét công tâm vì cái hay cái đẹp và sự phát triển của môn chơi đối mà chọn MỘT LIKE DUY NHẤT CHO MỘT VẾ ĐỐI TỐT NHẤT. Chú ý những người KHÔNG ĐƯỢC THAM GIA CHỌN LIKE trong trường hợp ngày là BA THÍ SINH THI VÒNG 2, NGƯỜI FB Y VÀ CHIẾU TL . Vế đối nào có số like cao nhất thì sẽ đạt giải nhì với phần thưởng là bao lì xì Lộc Xuân trị giá 1.000.000 đồng. FB X và FB Y là những người thường tham gia đối đáp trong chiếu chung có uy tín và có quan hệ tương đối độc lập nhằm tăng tính độc lập khách quan)

I/ Các hai nhóm khóa cần mở như sau :

1/ “dậu”=”kê”=”gà”. Trong đó “dậu” phải là con giáp.

4/ “ấp” , “khóm” cùng cấp đơn vị hành chính không chính thức.

5/ Chỉ xét đối thanh (“bằng đối trắc” chỗ vị trí chữ ” dách” và vị trí cuối câu của chữ “cúc”).

6/ Khóa : Có thêm một con vật khác con gà : “Gà đồng” là con ếch. Nếu không phải con vật khác hoặc không chỉ người thì không được.

7/ Nội dung ý nghĩa vế đối không lạ lẫm, kỳ quặc.

8/ Vế đối phải tương xứng với các từ loại của vế ra, trong đó có từ loại nhấn mạnh: chữ “kê” (trong kê đĩa) và chữ “gà” (trong “gà bài”) là ở chức năng động từ trong vế ra.

9/ Hai chữ “xì” trong hai từ ghép tương ứng.

II/ CÁCH TÍNH ĐIỂM :

1/ Mở được một khóa nhóm 1 được 02 điểm.

2/ Mở được một khóa nhóm 2 được 01 điểm.

3/ Vế đối phải thỏa mãn hết các khóa và ngữ cảnh vế đối có thể diễn ra trong thực tế, không gượng gạo mới đạt giải nhất của chiếu Thiền Long. Từ vế đối phải sử dụng từ ngữ phổ thông và có thể chứng minh được đó là phương ngữ, hoặc có trên từ điển hoặc có trong sách giáo khoa hoặc các tác phẩm đã xuất bản bởi nhà xuất bản hợp pháp tại Việt Nam.

4/ Căn cứ cách tính điểm trên để chọn 3 người có vế đối có số điểm cao nhất tham gia đấu loại vòng 2 để bầu chọn người đạt giải nhì. Nếu có thêm người bằng điểm với ba người có số điểm cao nhất thì được bổ sung vào đấu loại vòng 2.

Nhân chiếu đối của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đang chờ đến kỳ hạn, nhà thơ Đặng Phú Quý (em con cô ruột chủ chiếu) chợt nhớ đến bạn dạy ở trường THPT huyện chư sê tỉnh Gia lai. Khi ấy chờ bổ nhiệm hiệu trưởng. Quyền hiệu trưởng, tên Hoá mà thầy Hoá trước khi nắm quyền Quyền thì là trưởng bộ môn Văn. Trong khi thiếu giáo viên day môm hoá nên quý thầy trường THPT Chư Sê-Gia lai mới có câu:

Tuy nhiên do say rượu, trong lúc phê phê nhớ nhầm nên sau khi tỉnh dậy vào sáng hôm sau nhà thơ Đặng Phú Quý đã chỉnh lại vế xuất của mình:

Đến kỳ hạn, có 5 sĩ tử gửi câu đối đến dự thi:

1. XUÂN, MÙI THUI DÊ ĐỰC, HỌC CHỮ DÊ, DƯƠNG CẦN DÊ GÁI ĐOAN TRANG. DÊ CƯỜI “BE BE” GỌI BẠN CẠNH CHỒNG BE (Minh Tran) (Điểm: +Khóa (K)1: +2 đ:”mùi=dương=dê”; K2:+0 đ: vì vẫn là con dê;K3: + 2(be be);K4:+0 đ; K5:+2 (đạt thanh);K6:+2 nội dung;K7:+2: vì 2động từ; K8:+1đ: động từ ” dương”+”dê”; K9:+0đ: hai chữ “xì” mà đối “đoan”#”chữ”. Tổng cộng : 2+2+2+2+2+1=11 đ)

2. XUÂN, DẦN CÂN HỔ LỬA, MUA TIỂU HỔ, KỄNH TIỀN HỔ PHẬN TIỂU THƯƠNG. HỔ RỐNG ” GẦM GẦM ” PHÒNG ĐỊCH DƯỚI MÁI GẦM (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Điểm: K1:+2 vì “dần=kễnh=hổ”;K2:+2 vì “rắn hổ lửa” và… ; K3:+0: “gầm” ko phải tượng thanh;K4:+0 đ vì “phòng”#”mái”; K5:+2 vì đạt thanh; K6:+2 vì con vật khác là rắn hổ lửa;K7:+2 vì nội dung;K8:+1 đ: vì các động từ yếu giảm nửa phần điểm ; K9:+1. Tổng cộng: 11,5 điểm)

3. XUÂN, MÙI CHƠI DƯƠNG CẦM, NGẮM HƯỚNG DƯƠNG, DÊ LÚA DƯƠNG THÚNG HƯỚNG ĐÔNG. DƯƠNG KHIẾU ” BE BE ” ĐEO MẸ CẠNH BỜ BE (Tiêu Tường)(Dương Cầm: một loại đàn (Pi-a-nô). Hướng Dương: hoa Hướng Dương nở vào mùa Xuân. Dê lúa: mượn sức gió đẩy những hạt lép đi, chọn lọc hạt chắc (Từ Điển tiếng Việt: Dê (đt) dê thóc, lúa.) Dương: “扬” dơ lên, giương lên… Thúng: đồ đan sít bằng tre, lòng sâu, dùng để đựng. Hướng Đông: mùa Xuân nên có gió Đông thổi từ đằng Đông lại. Khiếu: “叫” kêu, gọi… “Be be”: tiếng dê, cừu (từ điển tiếng Việt). Đeo: đi theo. Bờ be: Bờ ruộng thường được đắp đất be lại dùng để đi lại, cũng có thể bắt cá. Bà Chúa thơ Nôm có 2 câu thơ tượng hình rất hay trong bài thơ Tát nước: “Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm, lênh đênh một ruộng bốn bờ be”)(Điểm: K1:+2; K2:+2 vì dương cầm ko phải dê;K3:+2 “bebe”; K4:+0;K5:+2;K6:+0 “dương cầm” ko phải con vật khác; K7:+2;K8:+1;K9:+1. Tổng cộng:12 điểm)

4. NĂM, KHÁI NHÁI KỄNH NON, NĂM THẾ KỄNH, DẦN BÀN KỄNH TRẬN CỜ VÂY. KỄNH RÚ ” OM OM ” BỒNG CHÁU CẠNH BỜ OM (Lý Hồng Đức)(Điểm: K1:+0 “khái” ko phải tên con giáp; K2:+0 vì “kễnh” cũng là cọp;K3:+2; K4:+0; K5:+2 đ; K6:0 đ; K7:+2;K8:+1 vì động từ “kễnh” yếu giảm được nửa phần điểm(1 đ).;K9:+0. Tổng cộng: 7 điểm)

5. XUÂN, DẦN MẦN TIỂU HỔ, NGẮM HỔ PHÙ, CỌP MÓNG HỔ VẬT HỘ THÂN. HỔ RỐNG ” G…ẦM G…ẦM…” TÌM BẠN DƯỚI GẦM TRỜI (Thao Vu)(Điểm: K1:+0 đ: vì động từ “cọp” ko rõ ; K2: +2 đ ; K3: +0 ko phải tượng thanh ;K4:+0 đ; K5:+2 đ; K6:+2 đ vì “tiểu hổ” là con mèo;K7:+2 đ; K8: +1; K9:0 vì 2 chữ “xì” đối bởi “hổ” khác “hộ”. Ngoài ra, nhầm vị trí “cúc” ở cuối câu, chữ “gầm” lại ở kề cuối. Tổng cộng: 9 điểm)

Những vế đối được gửi ngoài cuộc chơi:

Cuộc chơi với câu chữ thật gay go và hấp dẫn, “Tiên đối dị, đối đối nan”, chiếu Thiền Long xin một lần nữa bày tỏ sự khâm phục trí tuệ và sự nhiệt tình của quý đối hữu đã tham đối. Hy vọng sắp tới nhà ta sẽ có nhiều người tổ chức hơn nữa và nhiều người tham gia hơn nữa để các giải đối được tiếp tục phát huy ý nghĩa và tính hấp dẫn của món chơi câu chữ truyền thống dân gian này. Chiếu Thiền Long xin thông báo vế đối về “thập can”, chú ý từ loại dành cho 3 cao thủ lọt vào vòng loại trực tiếp là:

Đến giờ chốt nhưng ba vế đối vẫn có số like như nhau, bất phân thắng bại nên chiếu xin ra thêm một vế đối nữa nhưng lần này ít khóa mà tăng tính thời sự. Nếu lần ra đối thứ 3 vẫn ko thể tìm được người có số like cao duy nhất thì chiếu sẽ xét và bầu chọn ngưòi thắng trực tiếp từ những người có cùng số like cao nhất. Dạo gần đây xảy ra nhiều vụ án lớn về lợi dụng chức vụ gây hậu quả nghiêm trọng. Tội phạm có thể là những người có học thức và có địa vị cao trong xã hội. Việc làm bất chấp hậu quả của họ gây thiệt hại nặng nề cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội của nhân dân. Xét ở phạm vi hẹp hơn hay ở cấp thấp hơn thì điều đó vẫn diễn ra khá phổ biến. Vì vậy hôm nay chiếu đối ra một vế mới chú trọng tính thời sự như sau:

Vế ra như sau: LẦM THAN, CHẲNG THAN LẦM! (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) Vế đối 1: BÁO ĐỘNG, NHỜ ĐỘNG BÁO! (Minh Tran) Vế đối 2: CẢ NỂ, DO NỂ CẢ! (Tiêu Tường)

Các vế đối khác ngoài cuộc chơi:

KHÓ CHỊU, CHƯA CHỊU KHÓ (Nguyễn Hữu Quyến)(Lầm than mà chẳng than lầm, Khó chịu vì chưa chịu khó)

TÍCH CỰC NHỜ CỰC TÍCH (Lý Hồng Đức)

PHÚ QUÝ CÀNG QUÝ PHÚ (Nguyễn Văn Luyện)

LÀM THÂN, PHẢI THÂN LÀM! (Tiêu Tường)

Trong lúc chờ các cao thủ xuất chiêu, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh có đưa ra 1 vế xuất:

Vế ra: CAO THỦ TRANH THỦ ĐỘNG THỦ … KẺO THẤT THỦ (Thiền Long) Vế đối 1: HUYỆN QUAN CHI QUAN THAM QUAN THẤY KỲ QUAN (Tiêu Tường) (vế này tuy hay nhưng về từ loại thì : “CHI QUAN” # “TRANH THỦ” (động từ) = (động từ) “THẤT THỦ” # “KỲ QUAN”( danh từ) nên đã được chỉnh lý: HUYỆN QUAN CHI QUAN THAM QUAN … KHÉO VÀO QUAN Vế đối 2: ĐẠI THẦN ĐỊNH THẦN XUẤT THẦN RỒI AN THẦN (Thiền Long) (1 Danh từ ghép và 3 động từ ghép).

Tương truyền, khi bước vào tuổi 85, trong một dịp khuyên vua Càn Long nên hạn chế việc chu du thiên hạ, một lão quan ngự y ra câu đối:

“Quốc bất khả nhất nhật vô quân” (Nước không thể một ngày không vua) vua Càn Long đối: “Quân bất khả nhất nhật vô trà” (Vua không thể một ngày thiếu trà) Câu đối không chỉnh, nhưng thể hiện rất rõ cá tính một vị vua mang máu giang hồ này.

Câu đối chưa có đáp án của người Trung Quốc:

Câu đối đồng âm của người Trung Quốc:

Phiên âm tiếng Bắc Kinh

Tóngzǐ dǎ tóngzǐ, tóngzǐ luò, tóngzǐ lè

Dịch nghĩa:

Thằng bé đập hoa gạo, hoa gạo rụng, thằng bé vui

Trong giai thoại dân gian, có chuyện một ông Thầy Đồ ra cho mấy cậu học trò một vế đối như sau:

vế đối: Thánh sâu mác quan gừng tam cò (Không ngờ sự vận dụng máy móc nguyên tắc lại làm hỏng câu đối) vế đối khác: Thầy Toán dạy trò bảng cửu chương (Thiền Long) (Toán học là một môn học cơ bản và rộng khắp)

Khi đám thanh niên qua hát hò khoan đối đáp với nhóm nữ làng bên lại trêu ghẹo chị em thái quá, một cô gái muốn “dạy” cho đám thanh niên bài học mới cất tiếng hát:

vế đối: Hò hơ… ! Phận anh tựa cây đèn vàng xứ Việt / Tọa trên lư Tàu Khựa sao sướng thiệt là tê ! Hò hơ ớ hơ…! (Thiền Long) (Lư đồng bên tàu dẫu quý nhưng về Việt Nam chỉ là cái bệ cho cây đèn Việt tọa lên trên mà thôi. Thực tế bộ lư phải có bộ đèn được gắn trên đầu)

Hát hò khoan đối đáp nam nữ ở Tiên Phước xưa thường được lồng vào các buổi lao động tập thể, thể hiện sắc thái lao động ngành nghề đặc thù của địa phương như những đêm kẹp quế, ươm cây, bửa cau, lựa tiêu…Xã Tiên Châu có một phụ nữ tên là Bốn Lư có tiếng là một người, gọi theo ngôn ngữ hiện đại, là rất “chảnh”. Thời xuân sắc, cô Lư thường hay qua chơi ở Tiên Mỹ. Vốn xinh đẹp, lại hát hay, giỏi đối đáp nên cô ta tỏ ra kiêu kỳ, vì thế đám trai làng ở Tiên Mỹ không ưa gì cô ta mà hễ cứ có cơ hội là trêu chọc. Trong một buổi hát hò khoan đối đáp tại Tiên Mỹ, cô ta đã ra câu hát như thách thức đám trai làng Tiên Mỹ:

Không ngờ vỏ quýt dày có móng tay nhọn, trong đám thanh niên trai tráng có một anh chàng lém lĩnh ứng tác hát đáp lại ngay:

Tuy nhiên theo luật đối thì cô Lư vẫn không thua, bởi cô ra vế bằng 1 câu lục bát mà anh kia phải đối bằng 2 câu. Năm 2014, có người là Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đã đối lại câu này rất hay như sau:

Một trường hợp tương tự cũng đã xảy ra ở thôn Đa Tài, xã Tiên Phong. Đó là chuyện về hai mẹ con cô Điểu-chủ một nhà buôn cau. Cô Điểu là con một nhà buôn khá giả trong vùng, đẹp gái lại rất giỏi hát đối đáp. Mẹ cô (do gọi theo tên con theo phong tục ở quê nên cũng có tên là bà Điểu) rất giỏi hát đối đáp, trong các buổi hát vẫn thường hay ngồi bên kèm cặp cho con gái hát. Qua câu hát, cô Điểu luôn tự đề cao mình, thanh niên thôn Đa Tài và các thôn, xã lân cận chịu thua, hát không lại, nhưng trong bụng ghét lắm. Có một chàng trai trong thôn đã từng theo dõi mẹ con cô Điểu nhiều lần trong các buổi hát đối đáp, nhưng do khả năng hạn chế nên chưa bao giờ dám công khai lâm trận đối đầu trực tiếp với mẹ con cô. Sau khi tìm thầy thọ giáo các “ngón nghề”, chàng trai lại đến sân hát, đem theo một chậu hoa nhỏ rất đẹp tặng hai mẹ con cô Điểu. Đến lúc vào buổi hát, sau khi ngồi nghe hai mẹ con đua nhau lên giọng véo von hồi lâu, chàng trai mới bắt đầu hát lại. Đoạn đầu, chàng trai tỏ tình, ca ngợi vẻ đẹp của cô Điểu, qua đoạn sau, anh ta vừa mang ra tặng hai mẹ con cô một cây hoa rất đẹp nhưng thân lại đầy gai có tên là “điểu bất thê”, vừa thâm trầm chốt lại bằng câu hát:

Đến đây thì mẹ con cô Điểu ngượng tím mặt, bà mẹ vội kéo con gái đứng dậy: “Thôi, khuya rồi! Đi ngủ, để mai làm tiếp”. Và mọi người còn lại thì hả hê, cười thầm trong bụng. Cũng trong năm 2014, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đối đáp là :

Giặc Pháp bắt được Bạch Xỉ Hoàng Đế Đoàn Chí Tuân khi đang lên cơn sốt rét tại nhà một bô lão ở làng Trung Định, trước mặt là núi Đại Hàm (Hà Tĩnh) rồi đưa về giam ở nhà lao Vinh. Hồ Lệ – bấy giờ là Tổng đốc An Tĩnh, lấy tư cách là người trước đây đã từng xướng hoạ thơ phú với ông. Để tỏ lòng mình, y thử lừa Bạch Xỉ mà đọc một vế câu đối:

vế ra: Thương người răng trắng gặp hồi đen vế đối khác: Ghét lũ dạ thâm chờ tóc bạc (“dạ thâm” ám chỉ bọn bán nước cầu vinh thường có tâm địa đen (thâm) tối và thâm hiểm, muốn hưởng lợi hưởng nhàn (chờ tóc bạc), “gió thổi chiều nào theo chiều ấy” trong lúc đất nước bị giặc đô hộ) (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)

Một lần, cụ Như Bích Nguyễn Đình Chi ở làng Phú Đa thôn Tân Dân, xã Nhơn An, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định có ngẫu hứng gửi 1 vế ra nhẹ nhàng vui vẻ cho người con trai út là Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đang định cư trong Sóc Trăng:

Có ba anh học trò nọ cùng say một cô hàng chè xanh xinh đẹp. Xem chừng đã khuya mà chẳng anh nào muốn đứng lên. Cô hàng bèn nói: “Ba thầy những còn có lòng muốn ở lại chơi, chẳng nhẽ em lại đem chuyện hàng quán ra để nói, thôi thì mạo phạm nhờ ba thầy đối hộ em vài vế đối làm quà được không ạ?” Ba học trò hưởng ứng, cô đọc: “Bây giờ”. Anh học trò thứ nhất nhanh nhảu: “Lúc nãy”. Cô lại đọc: “Gà gáy”. Anh học trò thứ hai: “Chó kêu”. Cô hàng: “Canh tàn”. Anh học trò thứ ba: “Cây lõng”. Và hỏi cô gái: “Chúng tôi đối chỉnh đấy chứ cô?” Cô gái không nói gì, mà đọc tiếp và ba anh học trò lần lượt đối lại: “Chàng ơi! – Thiếp hỡi!”;”Thức dậy – ngủ đi”;”Tính toan – Lo liệu”;”Đồng tiền – Hạt gạo”. Rồi ba anh học trò hí hửng hỏi: “Còn gì nữa không cô?” Cô gái trả lời: “Dạ thưa đã hết. Bây giờ em xin đọc lại để ba thầy duyệt.”

Vế ra của em là: Bây giờ gà gáy canh tàn, chàng ơi thức dậy tính toan đồng tiền

Ba thầy đã đối lại là: Lúc nãy chó kêu cây lõng, thiếp hỡi ngủ đi lo liệu hạt gạo

Vế xuất này không dùng các câu chữ gây khó lắt léo mà thiên về gợi ý đối ý, quả thật vế xuất không khó nhưng cũng không dễ. Ngày 17/8/2014 có người là Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh xin đối là:

Lúc này nước nóng trà xanh, ly trà đón nhận tâm tình bình trao” (từ “tâm tình” vừa là có nghĩa danh từ vừa có nghĩa động từ. Nước thì nóng như lòng các chàng trai mà cô bán trà thì lòng vẫn xanh “dờn” như trà, cần có một sự chan hòa giao lưu với nhau để được một bình trà tâm tình. Mượn hình ảnh thuộc nghề nghiệp của cô gái như “nước nóng” “trà xanh”, bộ “bình” “ly” uống trà để gợi ý tứ kết thâm giao…)

Có 1 gia đình ở Nghệ Tĩnh, đứa con trai hư hỏng chỉ lêu lổng chơi bời khiến nhà cửa phá tán. Bữa nọ, có mấy đồng chí bộ đội hành quân qua ghé vào trú chân, buổi tối các anh đang ngủ tự nhiên nghe tiếng quát mắng của bà mẹ:

Năm 1989, báo Lao động có đăng một vế thách đối:

vế ra: Sai đâu sửa đấy, sai đấy sửa đâu, sửa đâu sai đấy

Đây là một vế thách đối hắc búa, mấy năm liền chưa ai đối được. Mãi sau tám năm (1997), giáo sư Nguyễn Tài Đại (nguyên trưởng ty giáo dục Nghệ An) được nghe Tỉnh ủy Nghệ An nói chuyện về tình hình kinh tế, thu chi ngân sách của tỉnh nhà. Thế là thầy sáng tác ngay vế đối lại:

Một lần, nhà thơ Vân Đài Đào Thị Nguyệt Minh có gửi đến câu đối chúc Tết Thế Lữ vừa hóc hiểm vừa dí dỏm:

Ở Báo An ninh thế giới có biên tập viên Nguyễn Trung Đản, nhà thơ Phan Quế và nhà văn Nguyễn Như Phong. Ba vị này cũng biết lỗ mỗ chữ Hán và hay nói chuyện về thơ Đường, từ Tống, về Tứ thư, Ngũ Kinh… Vì thế anh em gọi là ba ông đồ. Một hôm, nhà văn Nguyễn Như Phong ra vế thách đối:

vế ra: Đồ Đản, đồ Quế, đồ Phong, ba đồ ấy đều là đồ… dởm?

Vế thách đối quá hiểm hóc bởi lẽ có 13 chữ, những lại tới 5 chữ “đồ” mà lại có hai nghĩa khác nhau. (Đồ (chữ Hán) – có nghĩa là thầy đồ dạy học và đồ (chữ Việt) nghĩa là loại ấy.

Trong một buổi sinh hoạt Câu lạc bộ thơ trào phúng Hà Nội, nhà thơ Yên Thao (sinh 1927) đưa ra câu thách đối như sau:

Năm 2000, xẩy ra sự kiện cựu nữ dân biểu Việt Nam Cộng Hòa Trần Thị Kim Thoa (né-tìn) vừa “tái đắc”…cử ở liên bang của AZ thì bị ám sát tại Tucson, may mà giai nhân này chỉ bị trọng thương, thoát tử trong đường tơ kẽ tóc. Nhân lúc đang viết 1 bài nghiên cứu về cách nói lái trong Tiếng Việt, Cựu Giáo Sư Kiểu Mẫu Thủ Đức Nguyễn Hữu Phước tức cảnh nảy ra 1 vế đối hiểm hóc như sau:

vế ra: Giai nhân tái đắc giai nhân tử, anh hùng khai đống anh hùng tiêu

Câu đối trên mới nghe thì thấy thật là đầy chữ nho, tuy có vẽ không chỉnh nhưng nghe hay hay vì có dùng vài từ Hán Việt nghe kêu quá. Ta hãy tìm được những từ nói lái trong hai câu trên thì mới thấy cái thú vị của nó: Gian nhân tắc đái giai nhân chết, anh hùng không đái anh hùng tiêu

Vế đối vui của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh: Má hồng khai động má hồng tuyệt, hảo hán bại đất hảo hán vong (Tiểu = tiểu tiện = đi đái, đi tiểu ; đại = đại tiện; “khai động” nói lái lại thành “không đại”, “bại đất” nói lái thành “bất đại” . “không đại” = “bất đại” = không đại tiện, chữ “tuyệt” ở đây có nghĩa là “tuyệt vời” hoặc nghĩa là “hết”, có thể đối với chữ “tử”)

Ngày 27-3-2006, bệnh trọng, nhà thơ Tú Sót thanh thản về với tiên tổ, ông có để lại một vế “thách đối” như sau:

Ở Bình Định có nghệ sĩ nhân dân Võ Sĩ Thừa, một nhà văn ở đất võ đùa, tặng lão nghệ sĩ tuồng vế thách đối:

vế ra: Võ Sĩ Thừa hát bội không thừa, thừa võ sĩ nên đi hát bội

Vế này ra cách nay đến hơn 20 năm nhưng chưa có ai đối lại, cho đến năm 2014 mới có 1 người Bình Định định cư tại Sóc Trăng đối được như sau:

Vế đối: Trang Văn Thành làm thơ chưa thành, đã thành trang văn nên thêm làm thơ (Trang Văn Thành là cầu thủ bóng đá đội Đồng Tháp, vô địch quốc gia năm 1989, 1996) (Thiền Long)

Để chào đón năm Canh Dần (2010), nhà thư pháp Lâm Thanh Sơn có đưa ra vế xuất như sau:

Tuy nhiên Lâm Thanh Sơn nhìn từng con chữ phân tích như sau: “Đêm ba mươi”, đối lại là: “năm tháng năm” (ngày giết sâu bọ) chưa hay nhưng tạm được; “năm Hùm” đối lại là: “Đoan Ngọ” là được; “giờ dần” đối là “giữa trưa” tạm được. Nhưng “hổ sinh đôi cọp” đối ” ngựa phi tứ mã” thì không ổn. Chữ “SINH” phải đối với chữ “TỬ” mới đắt. Còn bất cứ chữ nào cũng gượng ép.

vế đối khác: Chiều mười một, tháng khuyển, ngày tuất, chó chết chín cầy (Thiền Long)(Tháng khuyển là tháng 09 âm lịch. Số đề con dê là 35 (phổ biến), số đề con chó là 11; chữ “chết” đối với “sinh” là chỉnh như yêu cầu vế ra)

Vế thách đối của Bảo Sơn nói đến các cán bộ, công nhân viên Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam:

Một gia đình làm nghề bán tiểu sành mời sư thầy đến tụng kinh siêu độ, tụng xong một tuần nhang nhà sư mót đái quá bèn lần ra phía sau vườn đái bậy. Đúng lúc đó, có 1 vị khách của gia chủ vừa tìm ra đó giải quyết nỗi buồn, nhà sư giật mình quay lại khiến nước đái văng tung toé ra cả đống tiểu sành được đặt gần đó.

Bài thơ “Lỗi thề” của Toại Khang, mỗi câu đều có 1 điển cố hoặc một địa danh của Việt Nam và Trung Quốc:

vế đối: Tiết trung tình lụy hạt Minh Châu. Bi kịch Hữu Cung nhuốm đẫm sầu. Rút kiếm còn vang hồn Trắc Nhị. Soạn văn cứ nhớ Tế Văn Hầu. Không về Lầu Hạc người bay mãi. Xa tại Quảng Lăng bạn vắng lâu. Ngô – Việt đổi dời hoa vẫn nở. Vườn Đào xưa nghĩa trọng tình sâu (Thiền Long) (Câu 1 nói về Mỵ Châu. Câu 2 nói về Ngọc Hân Công Chúa. Câu 3 nói về Trưng Nữ Vương. Câu 4 nói về Nguyễn Trãi, bị oan vụ án Lệ Chi Viên. Tế Văn Hầu là tước hiệu của Nguyễn Trãi. Câu 5 nói về tích người cưỡi hạc bay đi từ Hoàng Hạc Lâu. Câu 6 nói về chuyện Lý Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên. Câu 7 nói về Tây Thi giữa mối thù hai nước Ngô-Việt xưa. Câu 8 nói về cuộc gặp kết nghĩa của Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi).

vế ra: Con mèo đuôi cụt ngậm cái đuôi kèo (khuyết danh)

vế đối: Chú cáo lông sọc nhả mớ lông sáo (Thiền Long)

vế ra: Anh Tiễn đưa Sơn đi dạo núi (khuyết danh) (Tiễn và Sơn ở đây là tên riêng của người, ở đây có 2 cụm từ “tiễn đưa” và “đi dạo” còn Sơn thì có nghĩa là núi trong Hán Tự)

vế đối: Chị Thúc giục Giang băng qua sông (Thiền Long)

vế ra: Kiến còm bò lom khom (Lê Anh Chí) chữ “Kiến” âm Hán Việt nghĩa là “thấy”, chữ “lom”=”nom” chữ nôm nghĩa cũng là “thấy”, chữ “còm” = “khom”.

vế đối: Cò hom đứng ốm nhom (Thiền Long) (chữ nôm: “hom” = “nhom” = gầy yếu;”hom” còn có nghĩa là cái bẫy được đan bằng tre , cò hom là con cò bị nhốt trong hom (như chim lồng), ốm như cò)

vế ra: Con thầy huấn luyện xiếc Sư Tử thông gia với con thầy dạy múa Sư Tử (Trần Việt Hà)

vế ra: Rắn săn chuột rình chuột trên xà, canh ba chuột thử sà vào, rắn nuốt chuột không còn tí tỵ (vế đối khuyết danh toàn chuột và rắn)

vế đối: Dê sợ cọp dò cọp có mùi, giờ: bốn, cọp kễnh mò tới, dê chạy cọp chẳng kịp dần dương (Thiền Long) ( nghĩa hán việt chữ dương ở đây là “con dê” và “quanh co”; kễnh = cọp; “giờ: bốn” là giờ dần)

vế ra: Chợ tuy gần, cận thị hóa xa (khuyết danh)

vế đối: Gương dẫu xa, viễn cảnh thấy gần (Thiền Long)(Cảnh có nghĩa Hán Việt là gương. Gương còn có nghĩa là cái tốt đển noi theo hoặc cái xấu để tránh; “viễn cảnh” là cảnh tượng trong tương lai)

vế xuất: Công phu vợ giúp ông chồng phụ (khuyết danh)

vế đối: Tài tử cháu tạo thằng con tôn (Thiền Long) {“tôn” có nghĩa cháu và nghĩa “tôn lên” (tôn tạo)}

vế ra: Giao thừa Canh Thìn – Tân Tị, lính Hắc Hổ dùng binh Mẹo, thả Chó săn đánh Mùi, lùng bắt loài Chuột Lợn nhủi trong bờ Dậu, Dần cho lũ Trâu Ngựa một trận đòn nên Thân (vế ra khuyết danh có đủ cả 12 con giáp – Chuột Lợn là loài thuộc dòng họ nhà chuột nhưng lại béo ú như lợn, một động vật gặm nhấm có trọng lượng ước tính từ 45 – 54 kg đã được phát hiện trong thời gian gần đây, và chúng thường xuyên lui tới nhà máy xử lý nước thải ở Paso Robles)

vế đối: Trừ tịch Quý Sửu – Giáp Dần, chàng Bạch Tý tiễn lính Hầu, kiểm Dê núi nhớ Mèo, dạo thấy con Rắn Rồng chạy dưới đèn Cầy, Thử thăm bầy Heo Gà mấy chú còn tốt Mã (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) (Trừ tịch cũng là tên gọi khác của đêm giao thừa; Vế ra sử dụng các từ có hai nghĩa. Ở vế đối: hầu=khỉ,người hầu; mèo=mèo, bạn gái;cầy=chó,đèn cầy;Thử=chuột,làm thử; mã=ngựa,vẻ mã ngoài; “tốt Mã” ở đây nghĩa là khỏe khoắn tốt tướng chưa bị rắn tấn công; Rắn rồng là tên một loài rắn)

vế ra: Xuân con Khỉ cô bé Tiều giắt chú Bú Dù, mặc áo tứ Thân, đi cãi với Vượn, mãi chẳng rát Hầu (Bùi Tiến)

Vế đối: Trai trung nam tính cao tay. Bắc cầu tán tỉnh nàng tây ngỡ ngàng (Thiền Long){(4 miền: Tây, Bắc, Trung, Nam. Ngoài ra còn có nghĩa đề cập của vế đối:”Trai trung” là danh từ chỉ con trai miền trung, “nam” là tính từ “nam” (giới tính khác “nữ”), “bắc” là động từ “bắc qua” (kết nối), “nàng tây” là danh từ chỉ cô gái tây, phụ nữ tây phương)}

vế ra: Tết tung tăng, xuân xúng xính, hội hè…sum họp… (Vũ Đình Tuân)

vế đối: Hoa hớn hở, lễ la liệt, quây quần…quấn quít… (Thiền Long)

vế ra: Bác Đỗ Quyên cầm chim cuốc đi cuốc chim cuốc, cuốc cả đêm mà chẳng bắt được chim (Trần Việt Hà)

vế đối: Anh Cu Gáy mang cu mồi dạo mồi cu mồi, mồi suốt ngày vẫn không tìm ra cu (Thiền Long)

vế ra: Trong quần anh có em học khá (khuyết danh)

vế ra: Mua hàng rẻ, mãi mãi mua hàng rẻ (khuyết danh – trong Hán tự “Mãi” có nghĩa là mua)

vế ra: Lão Dương vác Điếu đi Câu, bị bẻ gẫy Cần, mất biệt danh Dê Cụ (khuyết danh)

vế đối: Nhóc Kê mang Súng tập Săn, chợt quên mất Đạn, thiệt cái tên Gà Đồng (Thiền Long) (Gà=kê; Đồng=đứa trẻ, nhóc; “Gà đồng” trong nghĩa “mèo mả gà đồng”)

vế ra: Báo chí ngựa tiêu cực, mã truy phong, tiêu cực chưa tiêu, ngọ hồi đầu Nhà báo cực (Nguyễn Đình Minh)

vế đối: Người đối mẹo hiểm hóc, miêu tẩy diện, hiểm hóc vẫn hiểm, mèo tróc thử mọi người hóc (Thiền Long) (“Miêu tẩy diện” (mèo rửa mặt) và “mèo tróc thử” (mèo bắt chuột) là hai thế võ mèo. “chí” còn có nghĩa là “gí” (vd: gí ngón tay vào thái dương), “báo chí ngựa” còn có nghĩa là “báo gí ngựa”)

vế ra: Bí mật: không bật mí, khi bị mất (Trần Việt Hà)

vế đối: Khai báo: sẽ khao bái, đại khái bao (Thiền Long)

vế ra: Con chim cánh cụt bị cụt cánh (khuyết danh)

vế đối: Chú sếu đầu đỏ nhìn đỏ đầu (Thiền Long)

vế ra: Thương nhau mà sống, thông nhau mà sướng (khuyết danh)

vế đối: Tố cùng đến khản, tán cùng đến khổ (Thiền Long)

vế ra: Chợ Đông Ba đông ba buổi (Nội dung biểu đạt của câu trên là chợ Đông ba cả ba buổi sáng, trưa, chiều đều đông đúc kẻ mua người bán. Điều thú vị là sự lặp lại liên tiếp của hai âm tiết “Đông Ba”)

vế đối:Dân Phú Đa phú đa đời (Thiền Long) (Phú Đa thuộc xã Nhơn An, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. “Phú quý có thể đối Đông đúc, “đa (nhiều)” có thể đối với số từ “ba”)

vế ra: Người Cần Thơ cần thơ, đất Cần Thơ cần thợ (khuyết danh)

vế đối:Sông Cầu Kè cầu kè, dân Cầu Kè cầu kế (Thiền Long) (Huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh; “cầu kè” là mong muốn có bờ kè chống sạt lở; “cầu kế” là mong muốn có chiến lược đột phá đúng đắn để phát triển địa phương)

vế ra: Tàu của Tàu vào Vũng Tàu đón ba Tàu về Tàu (khuyết danh)

vế đối: Phòng thuộc Phòng tọa Hải Phòng tiễn cai Phòng trả Phòng (Thiền Long) (Phòng ở thuộc cơ quan cấp phòng (vd phòng giáo dục) ; “cai” có nghĩa là người cai quản, “cai” còn là từ Hán-Việt chỉ con số có các giá trị 10²⁰, 10³², 10⁶⁴)

vế ra: Cao Bằng cao mà không bằng, không đâu cao bằng Cao Bằng (khuyết danh)

vế đối:Đèo Ngang đèo tất chẳng ngang, chẳng có đèo ngang Đèo Ngang (Thiền Long)

vế ra: Uống cạn ly đầy, rót đầy ly cạn, không say không về (khuyết danh)

vế đối: Ăn nhiều món ít, cất ít món nhiều, chưa no chưa đi (Thiền Long)

vế ra: Sinh sự, sự sinh (khuyết danh) (Gây nên điều không hay, thì chính điều ấy sẽ làm liên lụy đến bản thân)

vế ra: Gái Đồng Nai giữa đồng nai nịt (khuyết danh)

vế đối: Trai Sơn La hạ sơn la lối (Thiền Long)

vế ra: Sáng sớm mùa đông, qua cửa phía đông, đến chợ người đông, mua cục thịt đông (khuyết danh)

vế ra: Vợ cậu đã chửa chửa, vợ tôi vẫn chửa chửa (Vũ Quang Long)

vế ra: Quan tham đi tham quan, càng quan càng tham, càng tham lại càng quan (Trần Huy Thuận)

vế đối: Thú lạc tìm lạc thú, thêm thú thêm lạc, thêm lạc cứ thêm thú (Thiền Long) (Lạc thú là chỉ các thú vui không tốt nói chung, ý phê phán)

vế ra: Cơm chẳng có canh, chỉ có cơm, cá cơm, cốt cá cơm, cá chấm cá (Vế ra tả một bát cơm, một bát mắm cá và một đĩa cá gồm bốn chữ cơm và bốn chữ cá)

vế ra: Nem chả ngon, chả ngon (câu đối có nghĩa là nem không ngon nhưng chả thì ngon)

vế đối: Ếch cóc xấu, cóc xấu (Thiền Long) (Nghĩa là con ếch không xấu, con cóc mới xấu)

vế ra: Ngựa đá đâu, rồng che đấy (Nguyễn Thiên Tài) (vế này nghĩa đen là con Ngựa đá vào chỗ nào thì con Rồng sẽ chắn ở chỗ đó, nhưng lại có nghĩa khác là không phải là con Ngựa Đá đâu mà đó là con Rồng Tre, lúc này chữ Che sẽ được phát âm thành chữ Tre, đó là cái hay của Tiếng Việt)

vế xuất: “ĐẾN HẢI DƯƠNG ĂN THỊT DÊ VỀ NHÀ VẪN CÒN MÙI “, “NHẤM RƯỢU NGỌC DƯƠNG SOI GƯƠNG THẤY VẦNG DƯƠNG” (Nguyễn Trác Hùng)

vế đối: “VỀ CHUÔN NGỌ NHẢY LƯNG NGỰA CHỤP HÌNH SAO ĐẸP MÔ,”CÚNG NGÀY ĐOAN NGỌ SOẠN LỄ DÂNG GIỜ NGỌ” (Thiền Long)(Tên địa danh “Hải Dương” được đối bởi địa danh “Chuôn Ngọ” là tên làng thuộc xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên,Tp.Hà Nội)

vế ra: MONG ẤT MÙI, DÊ VÀNG LƯU LINH DÂNG RƯỢU LÊN BÀN RƯỢU, DƯƠNG ĐĂNG THẮNG LỢI (Phạm Thanh Cải)

vế đối: ĐỢI BÍNH THÂN, KHỈ TRẮNG BẠCH VIÊN LO CHỒNG DƯỚI NHÀ CHỒNG, HẦU HẠ CHU ĐÁO (Thiền Long)(Theo Truyện xưa nổi tiếng “Bạch Viên Tôn Các” thì Bạch Viên là tiên nữ xuống kết duyên với người phàm dưới trần gian nên dùng từ ngữ “dưới nhà chồng”, ngoài ra “lo dưới = hầu hạ” có thể đối với “dâng lên = dương đăng”;”Thân+Khỉ+Viên+Hầu” đối “Mùi+Dê+Linh+Dương”)

vế ra: BIỂN THƠ ĐẤT CẢNG: CẢNG – BIỂN – ĐẢO – NÚI – SÔNG – ĐỒNG (Phạm Thanh Cải)

vế đối: NHÂN TÂM NGƯỜI NGHĨA: NGHĨA – NHÂN – LỄ – TRÍ – TÍN – DŨNG (Thiền Long)

vế ra: Nhớ năm Ngọ xưa, các kị sĩ hân hoan cưỡi ngựa, xông thẳng vào vòng vây địch chẳng hề đơn thân độc mã (năm Bính Ngọ 1426: Vào tháng 10, khi nhận thấy quân Minh ở cả Nghệ An và ở ngoài Đông Đô không còn bao nhiêu, Bình Định Vương (Lê Lợi) bèn sai tướng Lý Triện, Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Đỗ Bỉ tiến đánh vùng Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng, Quy Hóa, Đà Giang, Tam Đái (Bạch Hạc) Tuyên Quang để chặn đường viện binh của quân Minh từ Vân Nam sang. Quân Minh vừa đến Tốt Động thì bị phục binh của quân ta bốn mặt đổ ra đánh chém. Quan Thượng Thư là Trần Hiệp, Nội quan là Lý Lượng cùng 50.000 quân lính nhà Minh phải bỏ mạng, hơn 10.000 tên bị bắt sống)

vế đối: Nghĩ niên Tuất ấy, đội khuyển binh tấp nập luyện chó, giúp diệt nhiều quân Phát xít là lũ lòng lang dạ sói (Thiền Long)

vế ra: Hết năm Thìn, đã hợp long xong cầu Hàm Rồng (Cao Nghiêm)

vế đối: Qua giờ Ngọ, rồi thượng mã vượt đèo Yên Ngựa (Thiền Long) (Phân tích: 1/Sử dụng từ ngữ chỉ hai con giáp xây dựng câu đối nhau: Ngọ, mã, ngựa đối Thìn, long, rồng. 2/ Động từ”thượng mã” (lên ngựa) đối động từ”hợp long” (thông đường) 3/Danh từ riêng”Yên Ngựa” (đèo ở Yên Bái) đối danh từ riêng”Hàm Rồng” (cầu ở Thanh Hóa) 4/Qua, rồi, vượtđốihết, đã, xong)

vế ra: “Mai dùng mai bứng cây mai đưa lên chậu” (Cao Nghiêm)

vế ra: XUÂN VỀ PHÚ QUÝ BÌNH AN ĐÁO (Bùi Đức Thịnh)

vế đối: TẾT ĐẾN VINH HOA PHÚC ĐỨC HƯNG (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)

Vế ra: Thi Ân mà chả tiếc Xu, trái mùa lòng vẫn vi vu Xuân về (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Xuân = Xu + Ân)

Vế đối: Nghĩa U luôn mãi tôn thờ (TH), nhớ người hè hết vỗ về THU qua (Thiền Long)

Vế ra: Thiện kia hơn bạc hơn vàng, như Thiên sâu Nặng thế gian sao bì? (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Thiện = Thiên + dấu nặng(.))

Vế đối: CHÍ này bằng núi bằng sông, vướng CHI tửu SẮC cho lòng đa mang! (Thiền Long)(chiết tự: Chí = Chi + dấu Sắc)

Vế ra: Đem Tình soi dưới nắng Tinh, thấy người xưa hóa lung linh diệu Huyền (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Tình = Tinh + dấu huyền(-)

Vế đối: Cầu TÀI về với nhà TA, làm công việc nhớ chẳng cho sức Ì (Thiền Long)

Vế ra: Mang Lê cũng Ngã mũ chào, đúng người biết Lễ anh hào tôn vinh(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Lễ = Lê + Dấu ngã)

Vế đối: Thỉnh KINH sâu SẮC thiện lành, thành tâm thành KÍNH răn mình tránh sai (Thiền Long).

Vế ra: Dao kia muốn Sắc nhớ mài, Tin mà muốn Tín chớ sai với người (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Tín = Tin + Dấu sắc)

Vế đối: Gặp người xô NGÃ thân ta, DUNG người mới DŨNG mới là từ bi (Thiền Long).

Vế ra: Đao kia mang Nặng làm gì, sống cho phải Đạo lo chi oán thù (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Đạo = Đao + Dấu nặng)

Vế đối: TRI nhân sâu SẮC nhân tâm, hiểu nhiều mới TRÍ chẳng lầm người gian (Thiền Long)

vế ra: Con Nhỏ cõng ở sau lưng, chính là cháu nội đến mừng tuổi ông (Vũ Quang Long)(chiết tự chữ TÔN 孙 (tử + tiểu)

vế đối: Người (亻) tu lưu chốn tịnh thanh, đó nơi núi (山) tĩnh luyện thành tiên (仙) nhân (chiết tự TIÊN = NHÂN+SƠN )(Thiền Long)

vế ra: Con ai đội Đất bùn ao, vun bề Hiếu thảo cắm sào chẳng ngay (Vũ Quang Long) (Câu này chiết tự chữ Hiếu 孝, gồm bộ chữ Tử 子 ‘nghĩa là con’ ở bên dưới, chữ Thổ 土 ‘nghĩa là đất bùn’ nằm bên trên. Ngoài ra còn có nét Phẩy 丿 nằm nghiêng trông giống hình cọc sào, đây là hình ảnh tượng trưng biểu hiện rằng chữ Hiếu rất khó vẹn toàn cũng như ta cắm cây sào giữa vùng đất bùn lầy thì nó không thể đứng thẳng được như ở đất bằng, chữ Hán tượng hình người con cố đẩy mà kết quả cũng chẳng có cách gì làm cây sào đứng thẳng lến được vì đơn giản nó được cắm dưới bùn)

vế đối: Tâm người giữ Miệng bên trên, quyết lòng Trung hậu cặm xiên giữa vùng (Thiền Long) {Vế đối chiết tự chữ Trung 忠, gồm chữ Tâm 心 bên dưới, chữ Khẩu 口 (nghĩa là miệng) nằm bên trên. Ngoài ra còn có nét xổ 丨 như cây xiên cặm ngay chính giữa chữ khẩu. Trung phải từ tâm mới chính trung}

vế ra: Mười Miệng người tuổi Giáp Thân, cấy chung một Ruộng chuyên cần tự Do (Trần Việt Hà) (Câu này chiết tự 4 chữ 田 Điền, 甲 Giáp, 申 Thân, 由 Do. Bốn chữ này đều do chữ 十 Thập (số 10) bên trong và chữ 口 Khẩu (cái miệng ăn) bọc ngoài, khác nhau 1 chút…khi là chữ Điền (thửa ruộng) thì nằm gọn thì chữ Thập trong chữ Khẩu, khi thành chữ Giáp thì nét sổ kéo dài xuống phía dưới, khi thành chữ Thân thì nét sổ kéo dài cả phần trên xuống phần dưới còn khi thành chữ Do thì chỉ dài ở phần trên còn phần dưới bằng mặt với chữ Khẩu. Câu này có thể hiểu rằng, có 10 người cùng tuổi Giáp Thân cấy chung 1 thửa ruộng, làm việc rất chuyên cần chăm chỉ tự do thoả mái)

vế đối: Một Hàng năm tinh Mậu Tuất ở cùng toàn Quân được bộ ngũ Nhung (Thiền Long) {Vế đối nói về “một 一(nhất) hàng năm 戊 (bộ qua có hai chữ “mậu”, chữ “mậu này có hai nghĩa : can Mậu và nghĩa là hàng thứ năm) người cầm tinh Mậu 戉 Tuất 戌 ở cùng với toàn quân 戍 (thú = lính thú= quân) và có chung một bộ ngũ nhung 戎” {nhung=binh khí, ngũ nhung là bộ năm binh khí (cung, nỏ, giáo, mác, kích)}.Tất cả các chữ chính là sự kết hợp của một nét ở các vị trí khác nhau và chữ mậu 戊, trong đó có nét ngang như chữ nhất 一ở chữ Tuất 戌 và chữ nhung 戎 . Tuy nhiên vẫn còn chữ Mậu 戉 thì là một nét hất và chữ thú 戍 thì như là một nét chấm dài)

vế ra: Hai Người thề với đất Trời, kết làm Chồng vợ trọn đời Theo nhau (Hoàng Trần Tư) (Câu này chiết tự 3 chữ 天 Thiên, 夫 Phu và 从 Tòng…Chữ Thiên có nghĩa là Trời được ghép bởi chữ 二 Nhị (số 2) và chữ 人 Nhân (người)…chữ Phu nghĩa là chồng cũng được ghép tương tự nhưng có điều chồi đầu lên cao hơn chữ Nhị 1 chút…còn chữ Tòng – chữ Tòng này là chữ Tòng đơn – nghĩa là Theo thì được ghép bởi 2 chữ Nhân, tượng hình 2 người theo nhau)

vế đối: Một Cây trái ngọt cội Nguồn, ăn vào Ngọn lưỡi vị đường Tê mê (Thiền Long){(các cách ghép bởi chữ Nhất(một) “一” và chữ Mộc (cây) 木}.(Một 一 Cây 木 trái ngọt cội Nguồn 本, ăn vào Ngọn 末 lưỡi vị đường Tê 木 mê; Có thế ghép hai chữ mộc 木 (cây) thành chữ lâm 林 để đối lại chữ Tòng 从 gồm hai chữ nhân 人 nhưng tương ứng logic (02 người) của vế đối là Một 一 Cây 木 nên vẫn phải dùng lại một chữ mộc 木 với nghĩa khác là “mất cảm giác”=”tê”}

vế Xuất: Đêm lạnh nhìn trăng, trăng sắc trắng (Nguyễn Văn Nam)

vế Đối: Bé chơi bắn bi, bi nặng bị (Nguyễn Sư Giao)

Vế đối trên có dị bản như sau:

vế Xuất: Tết ĐINH DẬU, ANH ĐI xem HÁT, rượu SAY mềm ngào ngạt SẮC xuân (Trần Việt Hà)(Chiết tự chữ Đính: Đi + n (anh) + h (hát) + dấu Sắc…Đính có nghĩa là say rượu được ghép bởi chữ Đinh và chữ Dậu)

vế đối: Xuân NHÂM THÌN, EM NHỜ hò Ớ, huynh NHẬN lời bởi lỡ NẶNG tình (Thiền Long){NH (nhờ)+Â (ớ)+M (em)=NHÂM, thêm dấu “NẶNG” thành chữ “NHẬM” có nghĩa là “NHẬN” (đại ý là mùa xuân, nhận lời đi hát hò đối đáp)}

vế ra: Ở một mình, anh Hai ba bốn năm nay vẫn đi xe Sáu Bảy đến chị Tám chín mười lần mà tình vẫn như không! (xe Sáu Bảy là xe máy hãng Honda nhập sang Việt Nam năm 1967) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế đối:Trụ nhất ấp, lão Nhị tam tứ ngũ tân đồng thẩm gian Lục Thất hồi sư Bát cửu thập phiên nhi lý đồng hư vô (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Ngũ là đơn vị hộ tịch thời xưa, cứ một ngũ gồm 5 hộ gia đình, “tam tứ ngũ tân” có nghĩa là ba bốn ngũ mới, “gian Lục Thất” là luật của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm)

vế ra: Cô Bầu ướt mắt Bồ Câu, thư Bồ Câu biết tìm đâu Câu Bồ! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế đối:Lá Cóc chung lẩu Cá Lóc, mồi Cá Lóc giao cho nhóc Lóc Cá (Thiền Long)

vế ra nhân dịp xuân Giáp Ngọ (2014): Xuân Giáp Ngọ mừng trang giáp bảng, ngựa vinh quy, mã đáo thành công (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế đối: Đông Quý Tỵ giao ban quý niên, rắn hồi hương, xà mãn hóa long (Thiền Long)

vế ra: Anh Cu Ba mua Mông Cổ bò hòng ăn tết Công Gô, giờ nằm Mốc Ra bên Ma Rốc (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)(Nước Cộng hòa Dân chủ Công Gô (Congo Kinshasa) hầu như không có Tết, vì 50 năm mới ngắm pháo hoa 1 lần)

vế đối: Chị Ba Tư kiếm Ga Bông bếp định nấu heo Iran, đang đứng La Mãi ở Mã Lai (Thiền Long) (Đạo hồi không ăn thịt heo, gần 99% dân số Iran theo đạo Hồi, kiếm Ga Bông bếp là kiếm Gaz nấu bếp và bông hoa đặt trong bếp, Ga Bông là tên tiếng việt của quốc gia Gabon)

vế ra: Mai Nhơn An mốt An Nhơn, mốt mai Bình Định lừng danh trong mai mốt (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nhơn An là xã thuộc thị xã An Nhơn tỉnh Bình Định. Làng nghề Hoa mai Nhơn An nổi tiếng, đem lại thu nhập khá cho người trồng)

vế đối: Cổ Long Phước kim Phước Long, kim cổ Bình Phước có tiếng từ cổ kim (Thiền Long) (Phường Long Phước thuộc TX. Phước Long tỉnh Bình Phước. Câu đối nói về Phụ kiện thời trang các kiểu kim gài cổ áo; Nghĩa từ “cổ” : cổ áo, thời xưa… có thể đối nghĩa từ “mai”: cây mai, mai sau…; Nghĩa từ “kim”: cái kim, thời nay… có thể đối nghĩa từ “mốt”: kiểu mốt (mode), ngày mốt (tương lai)…;Cây mai cũng được trồng ở nhiều nơi, phụ kiện cũng được tạo từ nhiều vùng)

vế xuất: Học già ra học giả (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế đối: Đồ nhỏ hóa đồ nho (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

vế ra: Tý Chuột máu có Mùi Dê, Thân Khỉ cũng chán mà mê Mẹo Mèo! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (4 trong 12 con giáp – Tý Chuột là tên người, mẹo mèo là mưu mẹo mèo mỡ bồ bịch)

vế đối: Hợi Heo tay mó Dậu Gà, Tỵ Rắn chưa đã bị sa Cọp Dần (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

Vế ra: Muốn Trí thì phải có Tri, thông minh Sắc bén ngại gì thấp cao (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Trí = Tri + Dấu sắc)

Vế đối: Trong Dũng thường có tính Dung, giỏi giang Ngã ngựa chẳng chùn thắng thua (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

Vế ra: Nhân kia còn mãi cõi trần, chắc vì hoa lá Nhờ Ân cội nguồn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Nhân = Phụ âm đầu Nh (Nhờ) + Ân)

Vế đối: Công này giữ chốt bến sông, cũng do pháo chốt Cờ Ông ngược dòng (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Chiết tự: Công = Phụ âm đầu Cờ (C) + Ông)

Vế ra: Phật như phảng Phất mai đào, bỏ đi Sắc dục, thêm vào Nặng nhân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Phật = Phất – Dấu sắc + Dấu nặng)

Vế đối: Trời cũng trăn Trở hạn khô, bớt giùm Hỏi sấm cộng vô Ì ầm (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Chiết tự: Trời = Trở – Dấu Hỏi (?) + Ì)

Vế ra: Nước là cuộc sống của Anh, Ước sao trăm họ an lành giàu sang (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Nước = Phụ âm đầu Nờ (Anh Nờ gọi tắt còn Anh)+ Ước)

Vế đối: Mưa là mong ước của Em, Ưa cho thiên hạ êm đềm ấm no (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Mưa = M+ Ưa)

Vế ra: Làm Giàu chớ đợi đến Già, trước tiên hiếu kính ông bà thầy U (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Giàu = Già + U)

Vế đối: Thoát Nghèo sao ngóng cống Nghè, phải ham học hỏi bạn bè bác O (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Nghèo = Nghè+ O)

Vế ra: Muốn Giầu phải biết làm Gì, người ta thường bại cũng vì lắm Âu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Giầu = Gì + Âu)

Vế đối: Đã Nghèo mà vẫn nghi Ngờ, đành cam chấp nhận mà vơ lấy Hèo (Vũ Quang Long) (Chiết tự: Nghèo = (NGỜ: Ng + hèo, thường những người nghèo hay ngờ vực đổ cho số phận hẩm hiu long đong lật đật mà không nhìn vào chí tiến thủ cộng với năng lực bản thân, do đó chỉ có cách tốt nhất là vơ lấy cái Hèo “tức cái gậy” mà đi ăn xin ăn mày thôi)

Vế ra: Thánh như Ánh sáng cõi trần, mai sau thoát tục nhân dân tôn Thờ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Thánh = Phụ âm đầu Thờ (TH)+ Ánh)

Vế ra: Lòng Tiên tĩnh lặng như Tờ, giúp thuyền vượt bão cập bờ bình Yên (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Tiên = Phụ âm đầu Tờ (T)+ (iên=yên)

Vế đối: Bụng Người lắm lúc ngần Ngừ, khi lại quả quyết bù trừ à Ơi (Hoàng Trần Tư) (Chiết tự: Người = Ngừ + Ơi, dấu huyền được hoán vị chuyển lên trên chữ Ư để phù hợp với ngữ nghĩa của câu đối, đại ý là con người ta lúc thì chần trừ khi lại quả quyết tuỳ theo hoàn cảnh thực tại của cuộc sống vậy)

Vế ra: Thuyền Quan chớ lái quạng Quờ, kẻo không sóng dậy vỡ bờ bất An (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Quan = Phụ âm đầu Quờ (Qu)+ An)

Vế đối: Lê Dân chất phác dậm Dờ, chớ để tức nước oán mờ hết Ân (Hoàng Trần Tư) (Chiết tự: Dân = Dờ tức chữ D + Ân, đại ý câu này nói lên “lê dân” là lớp người thấp cổ bé họng tính tình chất phác pha chút dậm dờ, nhưng chớ có để tức nước lúc đó thì tất cả những ân huệ sẽ chẳng còn mà chỉ thấy oán hận mà thôi…vì đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng chính là dân đúng theo cổ ngữ vậy)

Vế ra: Cái Nhà chẳng phải cái Nha, nên Quyền sai vặt phải là chị em! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Nhà = Nha + dấu Huyền (Quyền))

Vế đối: Cây Súng khác hẳn cây Sung, giữ Chắc bảo vệ non sông thanh bình (Hoàng Thành Ân tự Trọng Khoa) (Chiết tự: Súng = Sung + dấu Sắc (Chắc))

Vế ra: Sướng như Tiên lại tham Quyền, cho nên mới bị thằng Tiền nó sai (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Tiền = Tiên + dấu Huyền (Quyền))

Vế đối: Đã là Thánh chớ háo Sắc, vậy sẽ giữ chắc danh Thanh muôn đời (Vũ Quang Long) (Chiết tự: Thánh – dấu Sắc = Thanh, đại ý câu này nói rằng đã gọi là bậc Thánh hiền thì không được háo sắc, như vậy thì cái danh thanh khiết mới giữ vẹn tới muôn đời sau)

vế ra: THƠ chàng ý thiếp đã ƯNG, vì đâu còn bảo chàng đừng có THƯƠNG (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự chữ Thương, hoán vị chữ ư và ơ)

vế đối: Ghê bọn gặp người là Hét, cần xả xì chét chúng cho bõ Ghét (Đỗ Đình Bao) (Chiết tự chữ Ghét: G (đọc là Ghê) + Hét, đại ý vế đối là ghê tởm những bọn hễ thấy người là la hét mắng mỏ hạch sách nhiễu nhương, thế nên cần phải xả xì chét tức là mắng chửi nguyền rủa chúng nó để cho bõ ghét, mà chỉ đến vậy chứ có ghét thế chứ ghét nữa cũng chẳng làm gì được. Vế xuất có 2 chữ chàng là đại từ nhân xưng, vế đối khó dùng 1 chữ nên bắt buộc phải lấy chữ Bọn và chữ Chúng thì mới đáp ứng được yêu cầu của vế ra)

vế ra: Lời THỀ sau trước như IN, tham chi cũng chẳng chỉ xin tham THIỀN (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự chữ Thiền, hoán vị chữ i và ê)

Vế ra: ĐÀN ĐÀN ĐÀN BÀ, ĐÀN ĐÀN ĐÀN TỲ BÀ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)(1. Hai chữ đàn đầu tiên là từ chỉ về số lượng; 2. Hai chữ đàn thứ 4 và 5 đi liền nhau là động từ, như: nói nói, cười cười…; 3. Đàn bà, đàn tỳ bà đều là danh từ)

Ðời Vua Lê Thánh Tông có 3 người cùng đỗ tiến sĩ một khoa là Thế Lịch, Thế Hiển và Thế Vinh. Tương truyền trước hôm truyền loa, vua nằm mộng thấy ba ông Phật thế tôn. Hôm sau, ba ông tân khoa vào lĩnh mũ áo, vua cho là ứng với mộng của mình, sai đặt tiệc thết đãi và đọc một câu rằng: Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh, tam thế đồng khoa vinh hiển lịch (Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh, ba ông Thế đỗ một khoa cùng vẻ vang, rạng rỡ)

vế đối: Quốc Quang, Quốc Đỉnh, Quốc Bảo, tam quốc đề danh bảo đỉnh quang (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nguyễn Quốc Quang, Đặng Quốc Đỉnh, Nguyễn Quốc Bảo là 3 trong 19 vị đỗ tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700). Nguyễn Quốc Bảo (1680-?) người xã Chi Nê huyện Chương Đức (nay thuộc xã Trung Hòa huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây), Ông làm quan Hàn lâm Hiệu thảo. Đặng Quốc Đỉnh (1669-?) người xã Cát Xuyên huyện Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Cát huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa), Ông làm quan Hiến sát sứ. Nguyễn Quốc Quang (1676-?) người xã Kim Đôi huyện Võ Giàng (nay thuộc xã Kim Chân huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh), Ông làm quan Tự khanh, Thự Tham chính Nghệ An)

Bấy giờ, ở kinh đô Thăng Long có bốn danh sĩ được gọi là: “Tràng An Tứ Hổ” gồm Nhữ Đình Hiền, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Bá Lân và Vũ Diệm cùng rủ nhau đến nhà bà Đoàn Thị Điểm để thử tài. Sau khi nhận đề, 4 cao thủ không đối lại được đành lủi thủi ra về, Đoàn Thị Điểm nhân đó đưa ra vế xuất khác: Hổ thật thành hổ giấy.

Từ đó trong dân gian xuất hiện câu thành ngữ “Tràng An tứ hổ, nghểnh cổ nhìn nhau” còn lưu truyền cho tới tận ngày nay

vế đối: Sư giả hóa sư già (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ý nói: 4 danh sĩ Tràng An khâm phục Bà, ngỡ Bà là thầy (sư) “giả”, nhưng không ngờ là bậc thầy “già” dặn nên chẳng có gì phải xấu hổ khi thua một bậc nữ nhi văn chương tài hoa xuất chúng. Nhưng ngầm ý ăn miếng trả miếng (vì bị chê là hổ giấy) nên chê khéo Bà dữ như Sư tử, và đã…già! Chữ Sư ở đây ngoài nghĩa là bậc thầy, còn có nghĩa là sư tử (Lân Sư Rồng) để đối với chữ Hổ)

Trả lời bài thơ tự thán của Nguyễn Công Trứ:

Hồi âm bài thơ khất nợ của Nguyễn Công Trứ:

Lúc thiếu thời, Nguyễn Công Trứ đã từng được người đời liệt vào hàng các tay đổ bác có tiếng. Ông vớ của thiên hạ cũng đã lắm, mà thua thiệt nợ nần người ta thì cũng nhiều.Một lần đi đánh tổ tôm bị thua rồi mang nợ. Chủ nợ là một ông già, đến đòi năm lần bảy lượt mà Nguyễn Công Trứ cũng vẫn không có tiền giả. Sau ông lão đòi rát quá, Nguyễn Công Trứ đành phải đi lục lọi rương hòm xem có gì đáng giá để đem cầm đợ mà lấy tiền trang trải. Nhưng khốn thay, lục mãi mà vẫn chẳng khui ra được gì ngoài mấy quyển sách nát. Túng thế, Nguyễn Công Trứ mới đọc liều cho ông già một bài thơ để xin khất nợ.

Một lần, Nguyễn Công Trứ theo bạn đi xem hát ví ở Nghi Xuân, gặp một đám con gái hát rằng:

vế đối khác chuẩn hơn: Uy Viễn như Nguyễn như Công, như Trứ như Mậu Tuất dòng Văn như… (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nguyễn Công Trứ sinh năm Mậu Tuất (1778), quê ở làng Uy Viễn, có biệt hiệu Hy Văn. Ông là con quan Đức Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn vốn dòng văn chương nổi tiếng ở Hà Tĩnh)

Đối lại câu đối khó của Nguyễn Công Trứ ra cho Hà Tông Quyền:

vế ra: Cùng, thông, đắc, táng, bỉ thương mặc phó kì quyền (Nghĩa là: Cùng,thông, thua, được, trời xanh giao phó quyền hành). Câu này cũng có chữ “quyền” ở sau cùng, và cũng để thách thức Hà Tôn Quyền đối lại, nhưng Nguyễn Công Trứ còn có thâm ý nói rằng Hà Tôn Quyền khéo nịnh nên mới được nhà vua giao phó cho quyền hành. Nhất thời Hà Tôn Quyền không tìm ra câu khác nào trong cổ văn có chữ Trứ ở cuối để đối lại được đành chịu thua chờ cơ hội khác phục thù. vế đối: Cơ, tắc, vu, tà, hoành, tứ chi đạo bất trứ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Trứ là tên riêng của Uy Viễn Tướng Công để đối với tên riêng của Hà Tôn Quyền. Cơ = đói, tắc = vùi, lấp; vu = lừa dối, tà = cong vạy, không ngay thẳng; hoành = ngang ngạnh, tứ = buông thả. Vế đối ý nói: Nếu đạo lý không rõ ràng thì Cơ, Tắc, Vu, Tà, Hoành, Tứ sẽ xảy ra. Toàn bộ vế đối đều trích trong sách Mạnh Tử. Những chữ Cơ, Tắc, Vu, Tà, Hoành, Tứ được chọn lọc trong các ý chính của 1 đoạn văn rồi ghép lại, “chi đạo bất trứ” là trích trong 1 câu cũng của đoạn văn trên. Mạnh Tử (372-289 trước công nguyên; có một số tài liệu khác ghi là: 385-303 hoặc 302 TCN) là nhà triết học Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử. Ông tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu; quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương Thị (người đàn bà họ Chương). Chương Thị sau này được biết tới với tên Mạnh Mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh Mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như Tề Tuyên Vương (nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước Nguỵ)…nhưng không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ông được xem là Ông Tổ Thứ Hai của Nho giáo và được hậu thế tôn làm “Á Thánh Mạnh Tử” (chỉ đứng sau Khổng Tử).

Có lần, một người tên Phạm Đình Chi ở Mỹ Tho và có ý muốn được thử tài, mời Sương Nguyệt Ánh ra câu đối để kết duyên văn tự. Chẳng từ chối được, bà đành ra câu đối: Đình làng tôi chẳng phạm. Thưa ông, ông Phạm Đình Chi?

Hậu bối Trường Văn Nguyễn Phước Thắng xin phép được đối: Nguyệt hồ tôi đẫm sương. Bẩm cô, cô Sương Nguyệt Ánh! (Ánh trăng lòng hồ đẫm sương, nghĩa bóng là hình ảnh Bà đã chiếm trọn tấm lòng Ông ta, trong khi bà đã góa chồng (Cô sương có nghĩa là người đàn bà góa) mà Ánh Nguyệt vẫn sáng trong lòng sương phụ (nghĩa cụm từ: cô sương nguyệt ánh), nên Ông mong ước kết duyên…văn tự (!), chứ nào dám mạo phạm đến Bà!)

Tương truyền, lúc Sương Nguyệt Ánh ở Rạch Miễu, có một ông thầy thuốc trong làng đi xa, người vợ nhớ chồng đến cậy bà làm một bài thơ gửi thăm chồng. Bà liền viết một bài thơ như sau:

Xiển Bột đi thi bị trượt, ông buồn rầu, cùng các bạn hỏng thi ngồi than phiền, chực mượn rượu tiêu sầu, nhưng sờ túi, các thầy đồ đều hết tiền cả. Một bạn đố Xiển dám vào xin tiền Tôn Thất Thuyết, lúc ấy đang làm tổng đốc Thanh Hoá. Sáng sớm hôm sau, Tôn Thất Thuyết ra công đường thấy một người quỳ ở sân, Thuyết quát lính hỏi tên kia muốn kêu gì. Xiển đứng dậy trình ngay: “Con muốn chết, đến đây để nhờ lưỡi gươm của cụ lớn hoá kiếp cho”. Tôn Thất Thuyết quát: “Tên này thật là điên ngộ cuồng ngu. Vì sao mày lại muốn chết?” Xiển đáp: “Bẩm cụ lớn, con là học trò thi hỏng, sống thêm hổ bút hổ nghiên, nên muốn chết cho rảnh”. Thuyết thấy Xiển có vẻ thư sinh nho nhã, nói năng lại hoạt bát, liền bảo: “Nếu là học trò giỏi mà thi hỏng thì cũng đáng thương. Bây giờ ta sẽ ra đề cho ngươi vịnh thử bài thơ xem ngươi là học trò hạng nào”. Rồi Thuyết lấy ngay đầu đề là “điên cuồng ngu ngộ”.

Khoảng đầu thế kỷ 20, khi người Pháp đặt cơ quan hành chính ở Bắc Việt, sự cộng tác của nhân dân còn rụt rè. Nếu không phản đối ra mặt, ít nhân cũng có sự phản đối trong trong tinh thần vì ai cũng còn giữ điều tự trọng. chỉ riêng một bọn vô học vì danh lợi mà nhảy ra, mà được cân nhắc lên chức nọ chức kia, vội cho ngay là cờ đã đến tay, lên mặt lên mũi hống hách với nhân dân. Trong đám này, ở tỉnh Nam Định, có ông Pháo được sung vào chức phòng thành tức cũng như cảnh sát trưởng. Hàng phố gọi tắt là ông Thành Pháo, hai chữ này đã khiến cho Tú Xương liên tưởng đến lối chơ bài tam cúc; khi mỗi nhà còn hai quân trên tay thi tu quân xe trở xuống, ai có được đôi nào tức là thành, nghĩa là thành đôi, và ngả ra ăn kết, nếu không có đôi hơn đè trên. Ông bèn viết gửi Thành Pháo mấy câu như sau:

vế đối khác: Giàu đỉnh vạc khó sánh Mạc đỉnh Chi (Nguyễn Sư Giao)

Ở Quận Đại Lộc thuộc tỉnh Quảng Nam có anh Trần Hàn xấu trai, mặt thì rỗ, lại thêm chột hết một mắt, nhưng anh ta hát hay nổi tiếng. Nhưng “Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị”, vì khi anh xuống làng La Qua, quận Điện Bàn, gặp một cô gái hát chỉ hai câu mà không tài nào đối được, đành bỏ nghề hát, tuyệt tích giang hồ. Câu hát rằng:

Tỉnh Hà Nam có xã Như Trác nằm trong huyện Lý Nhân, dân gian vẫn lưu truyền một vế đối sau:

Thôn Cổ Luỹ thuộc xã Nghĩa Phú huyện Tư Nghĩa tỉnh Quảng Ngãi tương truyền có câu đối sau:

Thời Hậu Lê, Văn Miếu chiếm một khu vực rất rộng ở giữa địa phận hai làng Cổ Giám và Văn Chương. Bên tả là khu học xá ở thôn Minh Giám, nơi trú ngụ của các cống sĩ về học ở Quốc Tử Giám. Phía trước có một hồ nhỏ gọi là Văn Hồ, tu sửa thành một cảnh khá đẹp. Có bài thơ sau: “Thoi đưa tay mỏi canh chày, tiếng ai xin lửa là thầy cống Sen, thầy rằng đang học tắt đèn, cậy tình lân lý dám phiền đêm hôm”. Ðó chính là bài dân ca tình tứ vẫn được truyền tụng nói lên cái cảnh tượng chung quanh Văn Hồ, ngày đêm luôn luôn rộn lên những tiếng ngâm thơ, đọc sách của các “quan nghè” dự bị xen lẫn tiếng thoi đưa lách cách nhịp nhàng của các cô gái đảm đang. Tương truyền, một người ở thôn Minh Giám là Phủ Hào có lập một toà nhà ở phía đông Văn Hồ, gọi là Nho sinh quán để đón mời các sĩ tử ở xa về kẻ chợ trọ học. Những ai không có nơi quen biết, hoặc nghèo túng không có tiền thuê nhà, vào đó ở đều được đối xử tử tế. Vì vậy người ta cũng gọi quán ấy là quán ông đồ. Phủ Hào còn dựng một cái dinh con trên một gò nhỏ giữa hồ, làm theo hình chiếc hồ rượu, gọi là Nhất hồ đình. Ðôi khi Phủ Hào vẫn mời các danh sỹ chèo thuyền ra đó, uống rượu, làm thơ. Có lần Phủ Hào treo giải, ra một câu đối để thách các bạn làng văn đối chơi cho vui, câu đối ấy như sau:

Một người đi chợ Đồng Đăng vào đúng ngày hè nóng lực oi bức, chợt nảy ra một vế đối hay:

vế ra: Con gái La Qua, qua đường qua chọc, qua biểu em rằng, đừng có la qua (La Qua là tên 1 địa danh ở xứ Quảng Nam Đà Nẵng, “Qua” trong “qua đường” là động từ; “qua” trong “qua chọc”, “qua biểu” là từ xưng hô địa phương (cùng nghĩa với tôi, tao). “La qua” ở cuối dòng thứ tư có nghĩa là “la rầy tôi” và cùng âm với địa danh “La Qua”)

vế đối: Con trai La O, o tiền o ghẹo, o nói anh à, sao chẳng la o (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (La O là xã thuộc huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai. O có nghĩa là cô gái. O tiền là o bế tiền bạc)

vế ra: Nếu chịu Bà Chở, Bà Chở sẽ chở xuống Chợ Bà Chiểu (khuyết danh) (“Chở” vừa là tên của một bà vừa có nghĩa là đem đi bằng một phương tiện gia thông (chuyên chở). “Chịu Bà Chở” cũng có hai nghĩa : Thích bà có tên Chở hoặc, hoặc “đồng ý cho bà đó chở đi”. Tiếng lái của chịu Bà Chở là chợ Bà Chiểu một địa danh rất quen thuộc ở vùng Sài Gòn)

vế đối:Như cúp Ông Bầu, Ông Bầu đã đẩy lên Cầu Ông Búp (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Cầu Ông Búp ở quận Bình Tân, Tp. Hồ Chí Minh)

vế ra: Vượt Sông Đuống Xuống Đông lên bắc, trèo Đèo Ngang trong lúc Đang Nghèo (khuyết danh)

vế đối: Lướt Vàm Nao Vào Nam sang Chấn, về Cầu Giấy nuôi mộng Cấy Giầu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vàm Nao: sông ở Nam bộ. Chấn: Phương Đông)

vế ra: Vú Nàng đã bén tay anh, qua hòn Xương Kiến thì Xanh bắc cầu (“Vú Nàng” là tên một hòn đảo nhỏ (tương tự Xương, Kiến, Xanh, thuộc vùng biển Diễn Châu) được dùng với nghĩa như “vú của nàng” theo cách cùng âm)

vế đối: Đinh Ba đã thấm lòng qua, vượt điều Lớn Nhỏ nhờ Hoa gửi tình (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Đinh Ba, Lớn (Đá Lớn), Nhỏ (Đá Nhỏ), Hoa (Đá Hoa) là những đảo trong quần đảo Trường Sa.”Qua” là đại từ ngôi thứ nhất, dùng riêng rẻ là từ xưng hô của người lớn tuổi với người nhỏ tuổi, nghĩa là tôi, ta (cô, chú, bác, anh, chị)

Từ Thành phố Hồ Chí Minh về miền Tây, qua khỏi Long Định (Tiền Giang) một quãng sẽ qua một cây cầu có tên Cầu Rượu và cách không xa lắm là xã Giồng Dứa. Dân gian vẫn truyền tụng câu đối hóc búa như sau: Đi Giồng Dứa tìm mua dừa giống, ông cụ qua Cầu Rượu làm bà cụ rầu

vế đối:Bỏ Cai Lậy học ghép cậy lai, anh vợ sang Chợ Quê mà em vợ chê (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Cai Lậy là thị xã thuộc tỉnh Tiền Giang, Cậy là giống cây ăn quả cùng họ với hồng, Chợ Quê là tên nhà hàng ở 01 ngõ 163 Hoàng Ngân – Trung Hòa – Cầu Giấy – Hà Nội)

Phường Điện Dương, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, có một cây cầu bắc qua sông Cổ Cò (nối từ thượng nguồn sông Hàn ra Cửa Đại) và gần đó có một cái chợ. Chợ mang tên cầu và cầu mang tên chợ, một vế ra đối được cho là của một ông đồ:

Giáo Sư Toán Học Văn Như Cương là người tài hoa, uyên thâm nhiều lĩnh vực, vì thế sinh viên tôn vinh ông bằng một vế ra:

Vế ra này có 1 dị bản khác hóc búa hơn:

vế ra: Ông Cai Mây ở xóm Cây Mai, mang vài nhánh mai vàng đi chúc tết (Nguyễn Hoè ở An Nhơn – Bình Định) (xã Nhơn An thời trước có một nhân vật trứ danh tên là Mây, đi lính được đóng Cai nên gọi Cai Mây)

vế đối: Bà Giấu Cầy thăm quận Cầu Giấy, giơ mấy chậu giấy mơ ra đón xuân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vì chồng hứa đãi bạn nhậu thịt cầy nhà mình, nhưng tiếc con cầy khôn ngoan nên bà vợ đem giấu nó đi. Từ đó, Bà có tục danh “Bà Giấu Cầy” do bạn nhậu ông xã bà “mến tặng”. Tết nay bà ra thăm con ở Hà Nội. Nhà chẳng có gì, chỉ có mấy chậu bông giấy! Thôi thì cũng gọi là Xuân!)

vế ra: Con cò lửa đậu ở Cửa Lò (khuyết danh)

vế đối: Cây Bo Rừng không về Bưng Rò (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Bo Rừng là cây thuộc họ Mua, có tên khoa học là Blatus borneensis var. eberhardtii. Bưng Rò là ấp thuộc xã Hòa Hội huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh)

Cám cảnh trước sự xuống cấp của hồ Xuân Hương, một thắng cảnh nổi tiếng của thành phố hoa Đà Lạt trên cao nguyên, một nhân vật khuyết danh đã thốt lên: Một mai mai một Xuân Hương, Đà Lạt còn gì…là đạt?

vế đối: Hiện sinh sinh hiện Vân Anh, Lam Kiều biết có…làm kiêu! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (“Hiện sinh” là cuộc sống hiện tại đối với “một mai” là tương lai. “Sinh hiện” có nghĩa là sinh ra hiện nay đối với “mai một” là mất đi. Điển tích “Lam Kiều” chỉ nơi người đẹp ở, hoặc nói đến nhân duyên tốt lành.Chuyện rằng vào đời Ðường có thư sinh tên là Bùi Hàng. Một hôm chàng xuống đò, định tìm đến Ngọc Kinh, nơi tiên ở. Cùng đáp chuyến đò có nàng Vân Kiều sắc nước hương trời khiến chàng xao xuyến làm một bài thơ, tìm cách đưa người đẹp. Khi thuyền sắp cập bến, Vân Kiều cho thị nữ đưa chàng một bài thơ, trong có ý nói: chàng đến Lam Kiều sẽ gặp tiên. Chàng còn đang ngẩn ngơ thì nàng Vân Kiều đã biến mất, khi thuyền vừa cập bến.Bùi Hàng hỏi thăm Lam Kiều, đó là nơi có một cái cầu bắc qua sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây. Chàng lần tìm đến Lam Kiều, ghé ngôi nhà bên đường, xin nước uống. Bà chủ nhà gọi thiếu nữ tên Vân Anh mang nước ra. Chàng ngạc nhiên nhìn mãi người con gái đẹp tuyệt trần. Bà chủ thấy vậy, bảo chàng: “Con bé này là em gái của Vân Kiều, chớ lấy làm lạ; hai chị em nó giống nhau như đúc”. Bùi Hàng mừng lắm, có lẽ duyên trời đã định; một lát sau, chàng kể với bà chuyện gặp Vân Kiều trên thuyền. Bà tươi cười bảo chàng “Chắc Vân Kiều muốn se duyên em gái nó cho chàng”, rồi bà thong thả nói tiếp “Hiện tôi có một cái cối ngọc mà thiếu chày ngọc để giã thuốc. Bao giờ chàng tìm được chày ngọc, mang về đây, tôi sẽ gả Vân Anh cho chàng”. Bùi Hàng nhận lời. Chàng đi khắp nơi, đi mãi, vượt núi băng rừng mà chẳng tìm được chày ngọc. Quá thất vọng, toan trở về nhà, thì may sao, chàng gặp tiên ông cho chàng cái chày ngọc. Bùi Hàng lạy tạ, băng băng trở về Lam Kiều. Bà chủ nhà vui mừng gả Vân Anh cho Bùi Hàng. Chẳng bao lâu, đôi trai gái hoá thành tiên, bay lên trời.Trong Truyện Kiều, hai lần Nguyễn Du nói đến tích này: Sau khi gặp Kiều trong buổi Thanh Minh, Kim Trọng tưởng nhớ người đẹp và “xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang”. Và trong cảnh dưới trăng thề ước, Kim Trọng rụt rè nói: “Chày sương chưa nện cầu Lam…”. Trong truyện Phan Trần có câu: “Chốn Lam Kiều cách nước mây, Bùi Hàng chưa dễ biết đây chốn nào…”)

Có một Việt Kiều định cư ở bang California thuộc Hợp Chủng Quốc Châu Mĩ, tức cảnh sinh tình đưa ra câu đối sau đây:

Có 2 anh em nhà nọ (không rõ tên, chỉ biết là anh trai và em gái – Việt Kiều định cư tại hợp chủng quốc Châu Mỹ) rất mê văn chương, thường ngày thường hay xướng họa thi phú và câu đối. Một hôm, nhân đọc cuốn tiểu thuyết “Ỷ thiên đồ long ký” của nhà văn Kim Dung, người anh cao hứng ra 1 vế đối: Tạ Tốn Vô Kỵ Thành Khôn

Cô em gái cũng không phải tay vừa, đối xong lập tức ra 1 vế thách anh trai đối: Hà Túc Đạo, Thuyết Bất Đắc (Cái khó đây là tìm tên 2 nhân vật là Hà Túc Đạo và Thuyết Bất Đắc cùng một chuyện (nguồn gốc ở bộ tiểu thuyết Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung) và có tới 4 nghĩa: Cách hiểu thứ nhất: “Hà Túc Đạo không nói được”. Cách hiểu thứ hai: “Hà túc đạo” có nghĩa là “nói đến làm gì” (chữ đạo là đàm đạo), câu này hiểu là: “Nhắc đến gã Thuyết Bất Đắc làm gì”. Cách hiểu thứ ba, đạo là đạo nghĩa: “Hà Túc nói đạo nghĩa cho Bất Đắc”. Cách hiểu thứ tư, Hà Túc nói đạo nghĩa không được (bất đắc)

Người anh nghĩ nát óc mà không tài nào tìm ra được vế đối lại, đành chịu thua cô em gái vế đối: Văn Thái Lai, Lý Khả Tú (Văn Thái Lai và Lý Khả Tú là 2 nhân vật trong tác phẩm Thư Kiếm Ân Cừu Lục của Kim Dung. Câu này có 4 nghĩa: 1.” Văn Thái Lai quê nhưng đẹp” vì Lý = Quê mùa, Khả = Có, Tú = Đẹp. 2.”Văn Thái Lai” có nghĩa là Nghe tương lai an vui, thông suốt, câu này nghĩa là Nghe tương lai an vui thông suốt đối với Lý Khả Tú, vì Văn = Nghe, Thái= Thông suốt, an vui; Lai = Về sau, Tương lai. 3. Văn Thái đến làng Khả Tú, vì Lai = Đến, Lý = Làng, chỗ ở. 4.Văn Thái đến chỗ ở (làng) xinh đẹp) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Chạy vào nhà Thổ – kiếm Chú Kim, xem phim con heo – nhớ Cậu Chó (cái khó của vế ra: khó là Chú Kim và Cậu Chó là tên 2 cuốn truyện, và tất cả có sự tương quan đến nhà thổ và phim con heo)

Một lần, đại thi hào Nguyễn Du đi trẩy hội vô ý bị trượt chân ngã ngửa xuống đất. Các cô gái quanh đó nhìn thấy thế cười hô hố tỏ vẻ chế nhạo.

Một hôm, có người bạn giễu cợt mời Phan Văn Trị thử xướng một bài thơ vịnh “tứ khoái”. Không ngờ ông mỉm cười dễ dãi rồi ngâm luôn:

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có đồng chí bộ đội người thôn Cổ Phục xã Kim lương huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương tên Phạm Khoa Học (1930 – 1999) một lần đi công tác lên mạn ngược, trên đường gặp một cô gái người dân tộc Lô Lô. Mặt cô bịt kín nhưng bàn tay trắng trẻo đang đứng rửa mặt dưới suối, đồng chí này đến gần tán tỉnh rồi cũng giả vờ trượt chân va vào cô rồi cầm vào cổ tay để kéo cô khỏi ngã.

Bất chợt cô gái đọc: Người đâu vô ý vô tâm, chửa trông thấy mặt đã cầm cổ tay. Truyện Kiều có bốn câu hay, chàng mà nói được thiếp theo ngay về nhà

Đồng chí bộ đội của chúng ta vắt óc nghĩ nhưng không ra 4 câu gì gọi là hay, vì Truyện Kiều có mấy ngàn câu mà câu nào chẳng có ý nghĩa, sau cùng đành buông xuôi đánh trống lảng rồi chuồn thẳng.

Ngày 13 tháng 02 năm 2014, nhà văn NGUYỄN QUANG SÁNG từ trần, có người là Thanh Tâm cảm động sáng tác ra vế đối sau:

vế ra: Cô Công nói với cậu Rùa, Rồng ở dưới đất còn Cua trên trời. Ốc gào Nhện hỡi Nhện ơi, Ếch bơi phố núi Nhộng chơi ao làng. Gió chiều nhẹ thổi mênh mang, tao nhân mặc khách lang thang bên đường (khuyết danh) (Con Cua con Rồng nói lái là Con Công con Rùa, con Ốc con Nhện nói lái là con Ếch con Nhộng)

vế đối: Chị Cáo thưa cùng anh Bò, Báo đi xuống biển riêng Cò về non, Trăn rên Rái ỉ Rái on, Rắn leo sao hỏa, Trai lòn đường quan, mưa mai nặng đổ lan man, mày râu bồ liễu ngổn ngang trong lòng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Con Cáo con Bò nói lái là con Cò con Báo, con Trăn con Rái nói lái là con Trai con Rắn)

vế ra: Nếu mà chỉ biết yêu ta, ai ai cũng vậy ai mà yêu ai (khuyết danh)

vế đối: Dù gì xin hãy thương đời, người người như một người ơi thương người (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Mời cô mời bác ăn cùng, Sầu Riêng mà hóa Vui Chung một nhà (Phạm Hổ)

vế đối: Thưa anh thưa chị tình là, Mơ Tây nhưng lại Yêu Ta suốt đời (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Thầy Tu mà cũng Thù Tây, Thằng Tây cũng chẳng thích Thầy Tăng đâu (Phường Vải – Nghệ An)

vế đối: Tham Nương còn biết Thương Nam, Tông Nam càng phải trọng Tam Nông nhà (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Hay Nôm gặp bạn Hôm Nay, Thấy Chàng có một Tháng Chầy không đi (Phường Vải – Nghệ An)

vế ra: Cha Chài mẹ Lưới con Câu, chàng rể đóng Đáy con dâu ngồi Nò (Phường Vải – Nghệ An)

vế đối: Ông Thắt bà Bủa chị Thêu, em gái xếp Lợp người yêu ra Chằm (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nghề làm nón ngựa ở Phú Gia – Cát Tường – Phù Cát – Bình Định)

vế ra: Giường Đông thiếp Bắc sẵn sàng, buồng Tây mở khóa đợi chàng Nam nhi (Phường Vải – Nghệ An)

vế đối: Rừng Thu lá Hạ võ vàng, đêm Đông thắp nến ngóng nàng Xuân xanh (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Ca dao có câu: “Tay cầm bầu rượu nắm nem, mảng vui quên hết lời em dặn dò”. Câu này về đến Phường Vải, nó phải biến dạng đi một chút, thành 1 câu đối hóc búa:

vế ra: Đã Cam quấn Quýt má Đào, Cậy ai tin Nhãn mái trao lầu Hồng (Phường Vải – Nghệ An)(vế ra có các thứ quả: Cam, Quýt, Đào, Cậy, Nhãn, Hồng)

vế đối: Chẳng Đồng bội Bạc lòng Vàng, Đá phường mặt Sắt thỏa gan lính Chì (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Sắt son đanh Đá vững Vàng, đã không phụ Bạc lại càng Đồng tâm (Phường Vải – Nghệ An)

vế đối: Kéo cưa đẽo Đục chững Chàng, vẫn chẳng bổ Búa mà ràng Keo sơn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nghề Mộc)

vế ra: Đêm khuya gió dục mây đi, phong phanh nhớ dạng vân vi nhớ lời (Phường Vải – Nghệ An)(câu này hay nhất là hai tiếng phong phanh và vân vi. Hai âm của chữ Hán phong vân với cái nghĩa mây, gió)

vế đối: Chiều tà trời ủ rừng sầm, thiên thanh thương áo lâm thâm thương người (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Dần dà một Tý can chi, Quý ra khỏi Ngọ Vị chi đến nhà (Phường Vải – Nghệ An)(chỉ một câu giản dị, bình thường như thế, ta thử lượm xem: dần, tý, ngọ, vị và quý đó là những tiếng thuộc về bộ can – chi. Chữ Ngọ có nghĩa là ngõ, theo giọng phát âm nặng tiếng của người Nghệ An – Hà Tĩnh)

vế đối: Mộc mạc đôi Ly quái hành, Khôn vào tâm Khảm Cấn trành sang thân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Quái hành: Bát Quái (Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài) và Ngũ Hành (Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ)

vế ra: Ra về thiếp dặn thiệt nha, mai răng cũng lại đàng nhà thiếp chơi (Phường Vải – Nghệ An)(ở đây có bốn tiếng thiệt nha và răng lại (chữ Hán: thiệt là lưỡi, nha là răng)

vế đối: Đi xa chàng hứa thiên tinh, mốt sao vẫn đến quê mình chàng thăm (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ở miền Nam Trung bộ, cụm từ “Thiên tinh quỷ tế” có nghĩa là nói cuội, nói dối)

vế ra: Quanh năm gió thổi bốn bề, thu đông tây bắc xuân hè đông nam (Phường Vải – Nghệ An)(ở đây bao gồm 4 hướng “đông tây nam bắc” và cả 4 mùa “xuân hạ thu đông”, ở Nghệ Tĩnh mùa thu đông có gió tây bắc còn mùa xuân hè thì có gió đông nam)

vế đối: Cửa nhà hướng chỉ tám vì, càn khảm cấn chấn tốn ly khôn đoài (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Ước gì anh hóa thành bèo, em hóa thành nước anh trèo lên em (khuyết danh)

vế đối khác 2: Vậy thì em hoá thành cau, anh sẽ là bẹ ôm nhau suốt ngày! (khuyết danh)

vế đối khác 3: Đã thế anh biến ra trâu, em là con đỉa em bâu vào đùi! (khuyết danh)

vế ra: Ấm thân Hồ hởi Chai lơ, Bàn hoàn Chung Chén nhắm chờ ai đây? (Phường Vải – Nghệ An)(nghĩa chính của câu này là: Thân phận của con người đã đầy đủ, hả hê, say say, tỉnh tỉnh rồi, bây giờ còn rắp ranh nhòm ngó ai đây? Nhưng chỗ dụng công ở đây lại là ấm, hồ, chai, bàn, chung, chén và còn thêm cả nhắm thì thật là đầy đủ về tửu soạn lẫn tửu hứng)

vế đối: Sung tiền Thơm thảo Cầu tài, Xài xiếc Dừa Đủ ơn ngài thần linh (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Mâm ngũ quả cúng bàn thờ gia tiên trong dịp Tết: Cầu (mãng cầu) Thơm Dừa Đủ (đu đủ) Xài (xoài), ngoài ra còn thêm chùm Sung để cầu sung túc)

vế ra: Muốn cho nhật nguyệt đồng minh, ngày Nghiêu tháng Thuấn thái bình âu ca (Phường Vải – Nghệ An)(câu này ý muốn mặt trăng, mặt trời được tỏ rạng như nhau và ngày tháng nào cũng được thái bình, vui vẻ như đơi Nghiêu, Thuấn. Nhưng dụng công của câu này rắc rối ở chỗ chiết tự: chữ nhật ghép với chữ nguyệt thành chữ minh, lại còn có nghĩa chữ nhật là ngày, nguyệt là tháng)

vế đối: Mong sao ngôn tự hòa thi, lời Nôm chữ Việt quang huy giao tình (Phường Vải – Nghệ An)(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)(Chữ ngôn ghép với chữ tự thành chữ thi, chữ ngôn là lời, tự là chữ)

vế ra: Muốn cho một tháng đôi trăng, muốn cho lưỡng nguyệt tác bằng cho vui (Theo luật tuần hoàn thì mỗi tháng chỉ có một tuần trăng. Nhưng ở đây lại muốn có một tháng có hai tuần trăng và còn muốn hai tuần trăng ấy hòa hợp nhau cho thêm vui vẻ. Vấn đề ở chỗ nguyệt là tháng, nguyệt là trăng lại lưỡng nguyệt là đôi trăng và hai chữ nguyệt ghép lại là thành chữ bằng)

vế đối: Không mong mỗi ngày hai dương, cho dù song nhật kiến xương vẫn buồn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Dương dùng ở đây với ý là mặt trời ̣(Thái Dương), song nhật là hai mặt trời, hai chữ nhật ghép thành chữ xương là sự thịnh vượng)

vế ra: Muốn cho tử tế nhất môn, nhị văn khẩu vấn rể con một nhà (Phường Vải – Nghệ An)(Ý của câu này muốn nói: nếu muốn được tốt lành trong gia đạo, khi ước định lương duyên với nhau phải tai nghe miệng hỏi phân minh, về sau rể con mới có thể chung chạ với nhau một nhà được. Nhưng cái điểm trọng yếu của vế ra lại ở chỗ: chỉ một chữ môn mà thêm chữ nhị vào sẽ thành chữ văn. Mà nếu thêm chữ khẩu sẽ thành chữ vấn. Lại còn “tử tế nhất môn” cũng có nghĩa là “rể con một nhà”)

vế đối: Mong sao tôn ti đồng tâm, sĩ chí đao nhẫn hèn sang chung lòng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Tôn là sang, quý; ti là hèn, tiện. Tôn ti đối với tử tế. Chữ Tâm nếu thêm chữ sĩ thành chữ chí, nễu thêm chữ đao thành chữ nhẫn. Tôn ti đồng tâm nghĩa là người giàu sang cho chí người nghèo hèn đều chung một lòng)

vế ra: Cửa song dựa ỷ viết thư, thân mình liệu tính đợi chờ ai thương (Phường Vải – Nghệ An)(Nửa trên thấy rõ ràng nghĩa rồi tiếp đến chữ (song, ỷ, thư). Nửa dưới thì chữ rồi tiếp đến nghĩa (thân, liễu, đợi, ai)

vế đối:Quê hương gặp hội thơ thi, tâm tim hoài nhớ biệt ly sầu buồn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Địa danh “Xuân Liễu” ở huyện Nam Đàn, Nghệ An được tách ra tạo ra cách hiểu như hai nhân vật trữ tình có tên là “Xuân” và “Liễu” trong câu sau:

Vế ra: Trắng trong giữ giá nhà vàng, Răng đen má đỏ đợi chàng đầu xanh (khuyết danh)(Trắng, Vàng, Đen, Đỏ, Xanh)

Vế đối: Lam nham gìn giới áo nâu, lòng cam gan tím chạnh câu má hồng (Lam, nâu, cam, tím, hồng) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Vế ra: Bà già mặc áo bông chanh, Ngồi trong đám hẹ nói hành nàng dâu. (khuyết danh)(Chanh, Hẹ, Hành, Dâu)

Vế đối: Ông lão nhặt vỏ ống bơ, nằm ngoài gốc mận ngủ mơ ả đào (Bơ, mận, mơ, đào) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Vế ra: Giả đò neo chiếc thuyền tình, Bạn bè mối lái tơ mành gấp ghe (khuyết danh)(Đò, Neo, Thuyền, Bè, Lái, Mành, Ghe)

Vế đối:Khôn lanh nhiễu chuyện gấm hoa, phòng the thỏa dạ lơ là nhớ nhung (Lanh, Nhiễu, Gấm, The, Dạ, Là, Nhung) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Vế ra: Mừng chàng khí khái anh hùng, Tiếng tăm hùm hổ vẫy vùng nước non. (khuyết danh)(“khái”,”hùm”, “hổ” (tách ra từ các tổ hợp) để chỉ: “chúa sơn lâm . Mục đích của việc tạo cùng nghĩa ở đây là hình tượng hóa các tính chất được nêu, khiến lời Mừng chàng vừa sinh động vừa chân thật, chứ ko phải khen ngợi lấy có.)

Vế đối: Quý nàng danh giá trung trinh, tấm lòng băng tuyết lung linh biển trời (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (giá, băng, tuyết để chỉ ba trạng thái của nước khi đông lạnh; nêu lên phẩm giá cao quý của người phụ nữ son sắt thủy chung)

Vế ra: Trăng bao nhiêu tuổi trăng già, Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non? (khuyết danh)

Vế đối: Dòng bao nhiêu nước dòng pha, Giống bao nhiêu nước mà ra giống nòi! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nòi ở đây ngoài ý nghĩa là danh từ chung là nòi giống còn có nghĩa tính từ chỉ chất lượng tốt, có nhiều đặc tính di truyền ưu việt, chẳng hạn: con nhà nòi)

vế ra: Nhớ anh nhất nhật một ngày, Đêm tơ tưởng dạ lòng rày nhớ trông (khuyết danh)

vế đối: Chờ em tam nguyệt ba trăng, Trưa lang thang Ngọ ngựa oằn chờ mong (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ngọ: buổi trưa, ngoài ra còn chỉ cửa Ngọ môn hoặc hướng Nam. Ý nói: Chàng trai đợi cô gái đã 3 tháng, chàng mãi cỡi ngựa lang thang ở cửa Ngọ môn (hoặc phương Nam) đến nỗi con ngựa oằn lưng vì chở chàng cũng như “chở nỗi đợi chờ ngày càng tăng theo nỗi nhớ của chàng”. Nỗi nhớ tuy vô hình nhưng lại có thật. Ở đây, ngựa chở nỗi nhớ cũng như thuyền chở tiếng chuông trong bài “Phong Kiều dạ bạc”, một danh tác tứ tuyệt của Trương Kế thời Đường: Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, Giang phong ngư hỏa đối sầu miên, Cô Tô thành ngoại Hàn San tự, Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Bản dịch của thi hào Tản Đà:

vế ra: Chờ em nữa tháng ni rồi, Ôm đàn bán nguyệt dựa ngồi cung trăng (khuyết danh)

vế đối:Xa nhà bốn mùa rồi răng? Nhìn mai tứ quý ngỡ rằng út em (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Mai là một loài hoa quý (người Trung Quốc xem là Quốc hoa). Hoa mai chịu được gió tuyết mùa đông nên thể hiện sức sống tự cường mãnh liệt, luôn trau giồi tài đức trước nghịch cảnh cuộc đời. Trong bộ tứ quý “tứ quân tử” Tùng Trúc Cúc Mai, người xưa gọi Tùng, Trúc và Mai là ba người bạn mùa lạnh (Tuế Hàn Tam Hữu). Tranh phong thủy Hoa mai là biểu tượng của sự cao thượng, vinh hiển cao sang. Nhà thơ Cao Bá Quát, một vị Thánh Thi (Văn như Siêu Quát vô tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường – thơ Vua Tự Đức) tài hoa ngang tàng khí phách, vậy mà yêu thích hoa mai đến mức phải viết rằng: “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm, Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” Dịch là: Mười năm lặn lội tìm kiếm cổ. Một đời chỉ biết lạy hoa mai)

vế ra: Con gà cồ mổ bông kê, Ngựa ăn cồn mả rồng về Hạ Long. Dương đi dê lại có vòng, Cá lên khỏi nước cá hòng ngất ngư (khuyết danh)

vế đối:Chú khỉ đực trêu chị hầu, Phượng mổ đậu phụng mèo chầu Bồng Miêu. Hổ sang cọp vẫn không chiêu, ngỗng ra gặp bạn ngỗng dìu ngân nga (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Phượng: Phượng hoàng trong Tứ Linh “Long Lân Quy Phụng”, con trống là phượng, con mái là hoàng, Đậu phụng = Đậu phộng = Lạc)

vế ra: Sao rua gọi suốt ngày đêm, lòng anh mến mãi dạ em mê hoài (khuyết danh)(ở đây có bốn chữ tiếng Pháp: rua (jour): ngày; em mê (aimer): mến)

vế đối: Ban mai soi rõ sức thành, tình em khảm chặt tim anh lay nhiều (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Tiếng Anh: mai (might): lực, sức; anh lay (inlay): khảm, dát, cẩn) (vế đối ý nói: Tin chắc vào khả năng ứng chiến của thành lũy, quyết tâm chiến đấu bảo vệ tình yêu)

vế ra: Nhường luôn hết cả nhà xe, nhè luôn hết cả xương, nhường luôn miếng đất, nhất luôn cả miếng đường, nhường tới tận rau, nhàu luôn tới tận rương, nhường tới cái túi, nhúi tới cái tường (khuyết danh)

vế đối: Cho thêm một chút tấm lòng, chong thêm một chút lò; cho thêm chuyện nghĩa, chia thêm chuyện ngõ; cho một ít nghề, chê một ít ngò; cho tình lẽ lý, chí tình lẽ lo (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Trầu Không có, Dò Chả có, Ếch Cóc có, ba thứ này có mà đếch có (Vũ Quang Long)

vế đối: Giàu Có không, Bút Lọ không, Cung Nỏ không; trăm điều lo không lại chẳng không (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Kinh tế, Giáo dục, Quốc phòng)

vế ra: ông Năm nghiền thuốc lá Năm Năm Năm, từ năm năm năm tuổi cho đến khi tạ thế (vế ra có nghĩa là ông Năm nghiện thuốc 3 số 5 từ tuổi 55 cho đến lúc chết, suy ra ông này thọ 110 tuổi, chữ Năm Năm Năm trước còn có nghĩa là năm mươi nhăm năm tính từ thời gian ông Năm bắt đầu nghiện thuốc 3 số 5 đến khi ông từ bõ cõi trần) (Trần Việt Hà)

vế đối: Bà Chín mê vàng cây Chín Chín Chín, được chín chín chín lạng mà vẫn chưa thỏa lòng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vàng 999 là vàng 24K, 99,9)

vế ra: Ba bà mặc áo Bà Ba, đến nhà bà bà Ba, xem ba bà Ba bắt ba ba con Ba Ba (Trần Việt Hà)

vế đối: Bốn bố cá đề bố Bốn, sang quầy bố bố Bốn, bảo bồ bố Bốn ghi bốn bốn ngàn Bốn Bốn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Anh Lao, lao theo ngọn lao, trên đồi phi lao, gió thổi lao xao

Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối 5 câu:

vế ra: Một nghề học sao cho chín, còn hơn chín nghề mà chẳng ra sao (Trần Việt Hà)

vế đối: Vạn quân mưu kém thua không, lại bại không quân nhưng có diệu kế (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nói về kế Không Thành của Khổng Minh dùng khi đánh với Tư Mã Ý ở thành Dương Bình thời Tam Quốc)

vế ra: Tự luận đầu năm ra trắc nghiệm, trắc nghiệm cuối kỳ thấy tự luận (Linh Thảo – Đà Nẵng)

vế đối:Kiểm tra giữa tháng hỏi lý thuyết, lý thuyết mãn khóa viết kiểm tra (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Con quê ở đất nhà quê, quê của quê người quê cả thói

vế đối: Kẻ thị ăn vàng xứ thị, thị điều thị nhiễu thị luôn gương (Lấy ý ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Chùa Một Cột ở số một đường Chùa Một Cột (khuyết danh)

vế đối: Nhạc Không Lời được tặng không quán Nhạc Không Lời (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nhạc Không Lời là tên riêng album nhạc không lời)

vế ra: Nghi nhân mạc dụng, dụng nhân mạc nghi (Nghi người thì chớ dùng, dùng người thì chớ nghi)

vế đối: Si tình tất lụy, lụy tình tất si (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Sầu Riêng ai khéo đặt tên, ai Sầu không biết Riêng em không Sầu (khuyết danh)

vế đối: Mơ Tây bậu nỡ ghẹo tình, bậu Mơ chẳng tỏ Tây mình chẳng Mơ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Riêng Tây có nghĩa là Riêng Tư như trong câu ” Đồ tế nhuyễn của riêng tây, sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” (Truyện Kiều)

vế ra: Con cào cào đứng cào cào trên cái cào (khuyết danh)

vế đối:Cái le le nằm le le dưới bụi le (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Tiếng Việt thuần việt ưu việt. Người Việt cố gắng việc phát triển tiếng Việt Nam

vế đối: Người nam hát nam giọng Nam. Tiếng Nam vươn lên làm tiến bộ người Nam Việt. (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: “Nhân Vô Luật Bất Thành Nhân, Luật Bất Nhân Vô Thành Luật” (Nhất Vương)

vế đối: “Đạo hữu Hành khả đạt Đạo, Hành khả Đạo hữu đạt Hành” (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Con gái bên Đông, lấy chồng bên Tây, cứ ở lòng ngay, chớ hề Nam Bắc (khuyết danh)

vế ra: Đàn ông phận Cấn, cưới vợ phận Tốn, không nên cãi lộn, trái đạo Càn Khôn (khuyết danh)

vế đối: Đàn bà mệnh Âm, lấy chồng mệnh Dương, chẳng được gạt lường, lỗi đường Nhật Nguyệt (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Cóc Me Xoài Ổi, cóc có tiền mua, Ô Mai ai mua, xin tiền me mà trả (Cóc, Me, Xoài, Ổi và Ô Mai là tên 5 thứ quả. Chữ Cóc thứ 2 có nghĩa là không, chữ Me thứ 2 có nghĩa là Mẹ, Ô Mai nói lái là Ai Mua)

vế đối: Nỏ Qua Thương Kích, nỏ chút quân địch, Bạch Đả bã địch, lấy quân qua ra bịch (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nỏ, Qua, Thương, Kích và Bạch Đả (Tay Không tức Quyền Thuật) là 5 trong 18 ban võ nghệ. Chữ Nỏ thứ 2 có nghĩa là không, chữ Qua thứ 2 có nghĩa là Anh, Bạch Đả nói lái là Bã Địch. Nỏ chút quân địch là không có quân, không có 4 môn Nỏ, Qua, Thương, Kích để đối địch. Chữ bịch có nghĩa là đánh nhau)

vế ra: Tên tôi là Lễ, con nhà Thi Thư, gặp đời Xuân Thu thì phải Dịch (khuyết danh)

vế ra: Hai vợ chồng anh Ba, con đầu cụ Bốn, Năm nay cấy Sáu sào Bẩy lúa Tám, Chín giữa tháng Mười (khuyết danh)

vế đối: Thu thẻ hội chị Tri, cháu út bác Pho, Phai mã tên Suýt Sợ Quên cô Ấy Nài người Bà Thẻn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Tiếng Anh: Thu=Two, Tri=Three, Pho=Four, Phai=Five đọc như File, Suýt=Six, Sợ quên=Seven, Ấy= Eight, Nài=nine, Then=ten, Bà Thẻn=Pà Thẻn, 1 trong 54 dân tộc Việt Nam. Nài ở đây có nghĩa là nài nỉ. Ý nói: Thu thẻ hội viên chị Tri vì hoạt động công ty chị không đạt yêu cầu, chị ấy nài nỉ ưu tiên chị là người dân tộc ít người)

vế ra: Hẹ cậu Nghệ khóc Gừng, rức lác láng Diềng ỏn Tỏi (khuyết danh)

vế đối:Quận ông Xã cười Tỉnh, xĩn mời hàng Xóm la Làng(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Quận: ngoài nghĩa đơn vị hành chính, còn có nghĩa “đến lượt” mời những người khác trong bàn rượu, chiếu rượu)

Vế ra: Ngựa kim ăn cỏ chỉ, chó vá cắn thợ may (Khuyết danh)

vế đối: Ốc sên nuốt cá tăm, kỳ nhông nhai xúc xích (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Cá tăm (còn gọi là cá tăm xỉa răng) được xem là loài cá nước ngọt đáng sợ nhất. Chúng ký sinh trong mang của những con cá lớn hơn tại vùng Amazon)

vế ra: Chim đại bàng bay ngang qua chợ Đệm, thức ông Lưu Bị bàn luận chiêm bao (Chợ Đệm: chợ ở huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh, xưa chuyên bán đệm. Câu này chủ về việc “chơi chữ”: bàng, đệm, bị, bao. Có ý nhắc đến nghề đươn đệm bằng cỏ bàng ở vùng Đồng Tháp Mười)

vế đối:Bầy Ô Thước lượn tròn quanh tháp Bút, nhớ chàng Thi Sách học hành chuẩn mực (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ô thước = quạ, tháp Bút ở Hà nội, Thi Sách là chồng Trưng Nữ Vương)

vế ra: Học trò đi học khéo bầy trò, viết chữ lên quạt mo có mò đến tối! (khuyết danh)

vế đối:Lái đò vòi giá khá giả đò, ném sào xuống lều cỏ rồi cò tận trưa!(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (cò: cò kè)

vế ra: Trời mưa trời gió, vác đó đi đơm, trở về ăn cơm, trở ra mất đó. Kể từ ngày thương đó đó ơi, đó chưa thưa được một lời đây nghe (khuyết danh)

vế đối: Đất khô đất ải, ngậm ngãi tìm trầm, đi ra sụp hầm, đi về lụn ngãi. Tính trọn năm mê ngãi ngãi hời,ngãi nào chỉ giúp mỗi người này mong! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Mèo mướp lang thang tìm mùi Mẽo, gặp toàn thứ Meo mốc, về Méo mặt, đành Mẹo vặt một Mẻo… (khuyết danh)

vế đối: Gà ô buồn bã kiếm tí Ga, đụng mãi loại Gá gàn, lại Gạ mối, thôi Gả đại mấy Gã… (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Vế ra: “Đơn giản như đang giỡn” (khuyết danh)

Vế đối: Đại giả sao đã dại (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (1. Bậc lớn sao đã dại? 2. Đại đối với đơn, giả tạo đối với giản lược. Giả dối lớn thế ngỡ không ai biết cứ tiếp tục làm càn thì quả là đã dại rồi!)

vế ra: Đừng cố quá mà sớm quá cố (khuyết danh)

vế đối: Muốn thọ trường hãy tập trường thọ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Tình như giấc mộng tan, tàn như giấc mộng tinh (khuyết danh)

vế đối: Đời tựa đám mây bay, đày tựa đám mây bơi (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Thưa cô rằng, răng cô thừa (khuyết danh)

vế đối:Níu thầy thi, ni thầy thiếu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Níu = Nếu)

vế ra: Đấu tranh tức là đánh trâu, nhưng đánh trâu rủi bị trâu đánh thì biết tránh đâu (khuyết danh)

vế đối: Quyết tâm chớ ngại vấp tiên, nếu vấp tiên lo xử tiên vấp để hậu tâm quyết (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Yêu nhiều thì ốm, ôm nhiều thì yếu (khuyết danh)

vế đối:Oánh lắm hết mập, ấp lắm hết mạnh (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Cây sầu đông, trồng đồng sâu, chuyển lên đầu sông, mùa đông sầu tránh lụt (Tia La-de)

vế đối: Củ bán hạ, sống bá hạn, đổi thăng hạng bá, tiết hạ bán phòng mưa (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Bán Hạ là cây thuốc, loại thân củ. Thu hoạch vào mùa hè, chọn củ đào về rửa sạch đất cắt bỏ vỏ ngoài (màu vàng tro) và rễ tơ phơi khô. Bán hạ là một vị thuốc dùng theo kinh nghiệm dân gian để chữa phụ nữ có thai bị nôn mửa hoặc chữa nôn trong trường hợp viêm dạ dày mãn tính. Nó còn lạ một vị thuốc chữa ho (làm cho long đờm), chữa nhức đầu, đau dạ dày mãn tính. Nay mai, một hướng phát triển kinh tế cho cây Bán hạ vì nước ta sản xuất chưa nhiều, có năm còn phải nhập từ Trung Quốc)

vế ra: Con Cá Đâu anh ngồi Câu Đó, biết Có Không mà Công Khó anh ơi

vế đối: Chim Ó Đây tui chờ O Đấy, mặc Mất Còn chẳng Mòn Cất công tui (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Bứt Cỏ Ngựa ngồi đầu Cửa Ngọ, bắn Con Nai ngồi gốc Cây Non (nói lái theo giọng Nghệ Tĩnh, Cửa Ngõ phát âm nặng tiếng thành Cửa Ngọ thành từ nói lái của Cỏ Ngựa, Con Nai phát âm nặng tiếng thành Con Nây trở thành từ nói lái của Cây Non)

vế đối: Nhắn Vợ Mèo sang cuối Giờ Mẹo, lót Cái Dạ chờ đàn Cá Dại (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Tiếng Nam Trung Bộ và miền Nam: Vợ = Dợ, Vợ Mèo = Dợ Mèo nói lái thành Dờ Mẹo = Giờ Mẹo)

vế ra: Má Cúc Múc Cá đem đi bán, Má Cắt ống quần cao hơn Mắt Cá (khuyết danh)

vế đối: Tổ May Mổ Tay đưa lên mạng, Tổ Cay lai áo thấp xa Cổ Tay (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Thằng em bà chỉ thèm ăn bì chả (khuyết danh)

vế đối: Cậu nhí ông mo ký nhậu o mông (Trường văn Nguyễn Phước Thắng) (mo ở đây có nghĩa là số không, không được gì; thua trắng tay. Ký ở đây có nghĩa là ghi nợ. Ý vế đối: Cậu nhỏ của ông ấy bị thua trắng tay, hết tiền nên phải ghi nợ tiền nhậu thịt o (nọng heo)và thịt mông)

vế ra: Anh Quý chê những qui chế của chị Quế Chi thật chí quê (khuyết danh)

vế đối: Ông Điền thương mấy thiên đường của bà Thiền Đương nên thường điên (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Đàn ngỗng bay ngang rừng phi lao (Ngỗng=Ngan “tiếng Nam Bộ đọc là ngang” và Bay=Phi)

vế đối:Chiếc cộ đi xế đám hành tím (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (xế nghĩa là chếch một bên so vị trí được xem là chuẩn hoặc thẳng, ngoài ra xế cũng được gọi thay cho xe. Hành tím là một loại hành dùng để ăn, “hành” trong chữ Hán có nghĩa là “đi” trong tiếng Việt)

vế ra: Thằng hầu khỉ gió, vừa thấy nó voọc viên nem vượn (hầu=khỉ, viên=vượn, khỉ=voọc=vượn cùng một họ, voọc có nghĩa là ăn trộm lấy ý ở câu “vắng chủ nhà gà voọc niêu tôm”. Câu đối có nghĩa là thằng hầu tính tắt mắt đã ăn trộm mất miếng nem vượn, trong một bữa tiệc thịnh soạn có người vô tình chứng kiến cảnh đó nên thốt ra câu đối trên)

vế đối: Gã báo beo lửa, mới nghe hắn cọp hổ oai hùm (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (báo= beo, hổ=cọp=hùm, cọp còn có nghĩa là ăn trộm. Câu đối lại nói về một người hành nghề báo chí nhưng phẩm hạnh,tư cách không đàng hoàng)

vế ra: Mời bác Mão thử tý thịt chuột (khuyết danh)

vế đối: Nghe anh Thìn cọp dần xương hổ hoặc Nghe anh Thìn hổ dần xa cọp (Chữ hổ còn có nghĩa là bỏ đi, trốn đi, tránh đi. Chữ cọp còn có nghĩa là ăn trộm, ăn cắp) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) vế đối khác 1: Nhờ chú Tị kê dậu chuồng gà (Vũ Quang Long) (ý nói kê dậu cột chuồng cho gà khỏi chạy) vế đối khác 2: Ngắm em Thân dần kễnh hang hùm (Nguyên Xuân) vế đối khác 3: Kệ thằng Kê hầu viên thân tườu (Ngọc Châu)

vế ra: Đêm thu trăng sáng, Hằng ôm đàn Nguyệt, ngâm nga bài Trăng Thu Dạ Khúc (chú ý Hằng là tên riêng nhưng ở đây còn có nghĩa là chị Hằng ở trên cung trăng, Trăng Thu Dạ Khúc có nghĩa là “khúc hát đêm trăng thu” còn gọi là Hoài Lang Khúc là một điệu nhạc trong sân khấu ca kịch cải lương Nam Bộ) (Vũ Quang Long)

vế đối: Yến xuân ngày rạng, Phụng mừng sinh Nhật, tấm tắc câu Ngày Xuân Con Én (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ở đây Phụng là tên riêng nhưng cũng có nghĩa là một con vật thiêng trong Tứ Linh: Long Lân Quy Phụng. Theo Wikipedia: “Phụng có mỏ diều hâu dài, tóc trĩ, vẩy cá chép, móng chim ưng, đuôi công… Các bộ phận của phụng đều có ý nghĩa của nó: đầu đội công lý và đức hạnh, mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánh là gió, đuôi là tinh tú, lông là cây cỏ, chân là đất. Như vậy nó tượng trưng cho bầu trời, khi nó bay hoặc múa (phụng vũ) là tượng trưng cho sự hoạt động của vũ trụ”. “Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” là 2 câu thơ viết về mùa xuân nổi tiếng của Đại thi hào Nguyễn Du. Vế đối cũng có thể dử dụng đàn Nhật (cách gọi khác của đàn tứ hay đàn đoản) thay chữ sinh nhật: Yến xuân ngày rạng, Phụng nâng đàn Nhật, réo rắt câu Ngày Xuân Con Én. Hoặc có thể thay chữ Phụng bỡi chữ Quạ (Mặt Trời=Kim Ô):Yến xuân ngày rạng, Quạ nâng đàn Nhật, réo rắt câu Ngày Xuân Con Én)

vế ra: Tân tháng Tân Dậu, đàn gà rù thôi rù, bới nát kê non (Nguyễn Thanh Tuyên – Hải Phòng)

vế đối: Canh ngày Canh Thân, lũ khỉ mốc hết mốc, quấy rối hầu tơ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Anh Tẩu Mã cùng chị Lưu Thủy phi ngựa đến bên dòng nước chảy, vừa ngắm mây bay vừa hòa tấu giao lưu những khúc nhạc: Lưu Thủy Đoản, Lưu Thủy Trường, Lưu Thủy Tẩu Mã và Lưu Thủy Hành Vân (Tẩu Mã và Lưu Thủy là tên riêng của 2 nhân vật trong vế đối, 4 khúc nhạc trên đều thuộc giàn nhạc Tài Tử Cải Lương Nam Bộ) (Trần Việt Hà)

vế đối: Đoàn Tấn Binh với đội Phi Tượng tiến quân sang cạnh đàn voi chạy, cùng xem pháo kết cùng thi đấu kết nghĩa mấy ván cờ: Phi Tượng Cổ, Phi Tượng Tân, Phi Tượng Tấn Binh và Phi Tượng Liễm Pháo (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Bốn ván cờ trên thuộc thế trận Phi Tượng Cục trong nghệ thuật cờ tướng)

vế ra: Vào vụ Đông, trường Nam bón phân Bắc trồng khoai Tây; sang Xuân, Hạ quyết tâm Thu hàng tấn củ

vế đối: Vừa thắng Xe, lão Tướng đến nhà Bồ thi sức Ngựa; thế Tốt, Pháo ta đây Sĩ gánh ba đào! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) vế đối khác 1: Đến thôn Đoài, thợ Khôn tìm rượu Tốn uống tuần Ly, say Càn, Chấn tinh thần Khảm bao bộ tủ (bát quái) (Thiền Long)

vế ra: Ngậm tiền thì hám, ngậm hàm thì tiến (Phạm Xuân Phụng)

vế đối: Hở mùi thì liệng, hở miệng thì lùi (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Em là con gái Nghi Xuân, em đi chợ Hạ, mua cá Thu về, chợ hãy còn Đông (khuyết danh)

Ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối 2 câu:

vế ra: Khi biết thì đã già, ăn được cà cũng chẳng còn răng (Nghiêm Mạnh Hùng)

vế đối: Lúc hay là đang trẻ, chẻ đặng rẻ lại không có rựa (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (rẻ như nan, chẳng hạn như rẻ quạt)

vế ra: Vợ có Công thì Chồng không Phụ (khuyết danh) (lấy câu thành ngữ “gái có công thì chồng chẳng phụ” sửa chữ gái thành chữ Vợ, để đối chữ cho vế xuất…Vợ chữ Hán là Phụ, ở đây chữ phụ còn mang nghĩa phụ bạc. Công chữ Hán có nghĩa là chồng như Tướng Công, Công ở đây còn mang nghĩa là công sức. Ngoài ra chữ “có” còn đối với chữ “không”)

vế đối: Chồng được Thiếp là Vợ mất Phu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Thiếp ngoài nghĩa là Vợ Lẽ còn có nghĩa như Thiệp, Phu ngoài nghĩa là Chồng còn có nghĩa là người làm việc nặng như đi “phu”. Ý 1. Khi chồng mà có vợ lẽ thì xem như vợ mất chồng! Ý 2. Chồng nhận thiệp là vợ phải cho nghỉ bớt phu (để lấy tiền thuê công ấy đưa cho chồng làm quà dự tiệc!) Cảnh dở cười dở khóc của những người “bị” nhận thiệp mời đám cưới, tân gia…hiện nay rất phổ biến. Chẳng bà con, không thân thích, chỉ chào hỏi xã giao trong đôi lần gặp mặt, vậy mà cũng “vinh dự” được mời!! Dự thì bẳn hẳn khó chịu trong lòng, không dự thì cũng áy náy. Khổ nhất là những gia đình kinh tế chật vật gặp phải cảnh ngộ éo le này! Phải chăng đây là một kiểu “làm tiền” mới ẩn dưới mỹ từ “lễ nghĩa”?

vế ra: Người dân TỈNH Hà TĨNH, TÍNH TÌNH rất thanh TỊNH, như tờ giấy trắng TINH (Hoàng Trần Tư) (Tỉnh, Tĩnh, Tính, Tình, Tịnh, Tinh và địa danh Hà Tĩnh…đại ý câu đối nói rằng người dân của tỉnh Hà Tĩnh bản chất rất đạm bạc, đơn giản không cầu kỳ diêm dúa chẳng khác chi tờ giấy trắng chưa vẩy mực vậy)

Vế đối: Vùng vua ĐINH Nam ĐỊNH, ĐỈNH ĐÌNH rạng nhật ĐÍNH, tựa hào quang vàng ĐĨNH (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ý nói: Trong quần thể di tích thờ Vua Đinh ở Nam Định, trên nóc đỉnh của đình có Lưỡng Long Triều Nhật trông như Mặt trời đính vào tỏa hào quang sáng chói mà mỗi tia sáng là một nhánh thỏi vàng rực rỡ)

vế ra: Đêm ba mươi, chơi với cọp, bóp lưng hổ, nhổ răng hùm, túm “tai-gơ”, tu cạn dần, gần ông mãnh (ông ba mươi, cọp, hùm, dần, ông mãnh đều là những tên gọi khác của hổ. Tai-gơ: tiếng Anh Tiger, con hổ)(câu đối Tết Mậu Dần (1998) của nhạc sĩ Trọng Bằng)

vế đối: Xuân ba lăm, nằm cùng dê, mê hàng dương, thương tóc “thầy”, thấy “ma-kết”, mết hơi mùi, khui “sư phụ” (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ma Kết (capricomus – tiếng La tinh) là chòm sao biểu tượng con dê. 35, sư phụ, thầy là những từ khác để chỉ dê. Xem ” Năm Quý Mùi nói chuyện dê” của Hoàng Anh Tài trong Google. Khui sư phụ là khui chai rượu Ngọc Dương Tửu)

vế ra: Làm đại Khái qua loa, nói như Hùm như Cọp, ông Ba Mươi đã lên giọng lão, chẳng sửa Dần càng thêm Hổ miệng (câu đối tết Canh Dần (2010) của nhạc sĩ Trọng Bằng)(ở đây có 6 danh từ chỉ tên chúa sơn lâm là: khái, hùm, cọp, ông ba mươi, dần, hổ. “Khái” theo Đặng Thanh Hoà là phương ngữ miền Trung (Từ điển phương ngữ tiếng Việt, nxb Đà Nẵng, 2005). Tác giả dẫn chứng bằng câu ca dao: Núi Ngũ hổ hình như năm khái. Theo Thiều Chửu, Khái (bộ Thạch) nghĩa là cúi lạy. Tục gọi dập đầu lạy là khái đầu, theo nghĩa này thì Khái là con hổ được thờ, được tín ngưỡng dân gian vái lạy. “Hùm” đến từ chữ Hùng (bộ Chuy), nghĩa là mạnh, Tiếng Việt có từ kép “hùng hổ”. “Dần” người tuổi Hổ, 1 trong 12 địa chi, thuộc con giáp thứ 3 tượng trưng cho loài Hổ)

vế đối: Nghe du Dương bậu đài, rằng “Sư Phụ” sư Dê, tuổi Ba Lăm sớm phong chức cụ, muốn thử Mùi cứ gọi “Thầy” râu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Dê còn được gọi là sư phụ hoặc thầy, số 35 cũng tượng trưng cho con dê – xem bài “Năm Quý Mùi nói chuyện dê” của Hoàng Anh Tài trong Google)

vế ra: Tối ba mươi, giết hổ, hầm xương cọp ăn dần (khuyết danh)(Hầm cũng có nghĩa như Hùm)

vế đối: Tuổi ba lăm, thả dê, dương rượu mùi khai vị (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Theo Từ điển Hán Việt Đào Duy Anh, “mùi” còn gọi là “vị”)

Câu đối chơi chữ Việt – Trung – Anh – Pháp của Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Lạc:

Tương truyền ngày xưa ở làng Sào Long (chưa rõ thuộc địa phương nào) có vị Lý Trưởng tên là Chuối rất tàn bạo, nổi danh cường hào ác bá. Hôm đó, không biết tại sao ông ta gọi 1 vị thầy đồ của làng đến sai quân nọc cổ ra đánh cho 1 trận. Thầy đồ rất cay cú nhưng không làm sao được, bèn nghĩ ra 1 vế thách đối rất hóc búa như sau:

vế ra: Cô Lan bán giấy cửa Đông; kẻ Nam người Bắc, chưa vừa lòng cô! (chiết tự chữ Lan, tên cô gái, ta được chữ “môn – cửa” và chữ “Đông”. Vế đối nêu lên ba hướng Đông, Nam , Bắc, mà không nêu hướng Tây. Ấy là tác giả muốn ám chỉ cô Lan này chỉ vừa lòng… Tây!).

vế đối: Chàng Thung tạo dáng cây Xuân; ngọn Thu gốc Hạ, chửa ưng ý chàng! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự chữ Thung gồm chữ Mộc (cây) và chữ Xuân (mùa xuân). Thu ở đây có nghĩa là thu ngọn lại cho nhỏ, hạ ở đây có nghĩa là làm cho đế gốc thấp xuống theo nghệ thuật cây cảnh Ngọa Long Phi Phụng. Câu này chỉ nêu 3 mùa: Xuân, Thu và Hạ, không có chữ Đông; ý nói anh chỉ ưng người con gái tên Đông hoặc ở phương Đông)

vế ra: Con Chim Chích choè, dù nó bay khắp Mười phương Bốn hướng, cuối cùng vẫn phải quay về với Một chữ Tâm, đó chính là Đức (câu đối chiết tự, lấy ý từ câu đố chữ Đức trong Hán Tự “chích choè mà đậu cành tre, thập trên tứ dưới nhất đè chữ Tâm”. Chữ Đức gồm bộ Chim Chích bên trái, bên phải thứ tự từ trên xuống có các chữ Thập Tứ Nhất Tâm chồng lên nhau. Vế ra có nghĩa là: dù ai có tài giỏi bằng mấy, dẫu đi khắp nơi mà không có tâm thì cũng chẳng làm nên trò trống gì, như Bác Hồ đã nói người có tài mà không có đức thì vô dụng, mà muốn có đức thì trước tiên phải có tâm vậy) (Đỗ Đình Bao)

vế đối: Mặt trời cuộc sống, cả đời sáng giữa Một đất Một trời, dưới trên xuyên suốt chan hòa trong Một đạo Nhân, ấy đúng là Xuân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Xuân gồm 3 chữ Nhất, một chữ Nhân và một chữ Nhật. Con người sống phải có Đức cũng như thiên nhiên tồn tại bắt đầu từ mùa Xuân. Đức là gốc của người, Xuân là gốc của bốn mùa. 3 vạch tượng trưng cho Thiên, Địa và Nhân, và có tấm lòng Nhân ái xuyên suốt 3 cõi. Sống trên đời phải có khát vọng tươi sáng cũng như tự nhiên phải có Mặt trời soi sáng, sinh ra, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành cho vạn vật)

vế ra: Lục mộc sâm sâm: Đào, Mai, Trúc, Tùng, Bách, Liễu (có nghĩa là sáu cây xum xuê: Đào, Mai, Trúc, Tùng, Bách, Liễu. Nhưng lại có nghĩa khác về mảng chiết tự là sáu chữ Mộc gộp lại thành hai chữ Sâm)

vế đối: Lục nhật tinh tinh: Đạo, Đức, Trí, Nghĩa, Tâm, Nhân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Sáu mặt trời soi sáng làm sáng trong tinh túy cho Đạo, Đức, Trí, Nghĩa, Tâm và Nhân. Về mặt chiết tự thì 3 chữ Nhật hợp thành chữ Tinh)

Trước đây có người đã đối là: Ngũ kinh kinh điển: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu. Vế đối chưa chuẩn về mảng chiết tự nhưng cũng đưa vào để tham khảo Một câu khác nội dung tương tự nhưng được chuyển thể thành thơ lục bát như sau: Quế Hoè Tùng Bách Liễu Mai, sâm sâm lục mộc anh tài đối đi? (Trường Đông Giang) (câu đối chiết tự: 6 chữ “quế 桂, hòe 槐, tùng 松, bách 栢, liễu 柳, mai 梅”, mỗi chữ đều có một chữ “mộc 木”. Ngoài ra 2 chữ “sâm 森” được ghép bởi 6 chữ “mộc 木”, vế ra ở trên chưa chuẩn bởi chữ Trúc không có bộ mộc bên cạnh, tuy nhiên ta có thể xem đây là một vế ra khác) vế đối: Xuân Huyên Thần Trí Cảnh Tình, tinh tinh lục nhật thư sinh đáp về! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Trong 6 chữ Xuân, Huyên, Thần, Trí, Cảnh, Tình đều có chữ Nhật; 2 chữ Tinh do 6 chữ Nhật ghép thành)

Trong một bài ca dao khác, người con gái nơi thôn dã đã ra vế đối hóc búa để thử tài chữ nghĩa của chàng trai: “Quế, hòe, tùng, cúc, liễu, chúng tôi sum lục mộc, chàng tài đối đi.” Vế thách đố của cô gái đưa ra sáu loại cây: Quế [桂], Hòe [槐], tùng [松], cúc [菊] liễu [柳] mai [梅] “Sum sum lục mộc” [森 森 六 木] ý muốn nói sáu loại cây này sum xum xuê, rậm rạp. Đặc biệt, chữ “Sum” cũng đọc là “Sâm” nên “Sum sum” tức “Sâm sâm” [森 森 Từ đó, ta có thể hiểu được hàm ý của cô gái: “Sum sum lục mộc” nghĩa là trong sáu loại cây có sáu chữ mộc [木] và hai chữ “Sum sum” [森 森] cũng có sáu chữ Mộc [木] Chàng trai cũng tỏ ra thua kém: Chữ rằng diễm thảo quy hoang, Viêm viêm tứ hóa nay chàng đối cho. Câu trả lời rất thông minh: Chàng dùng “Diễm thảo quy hoang” [艷草歸荒] (cỏ đẹp trở thành hoang dã) để có thể “Viêm viêm tứ hỏa” [炎炎四火] (lửa cháy bốn bề) hàm ý phủ định lục mộc bộn bề của vế thách. Đặc biệt, trong hai chữ Viêm viêm [炎炎] có bốn chữ Hỏa [火] (tứ hỏa) đối lại với “Sum sum” [森 森] có sáu chữ mộc [木] (lục mộc) vế đối:Thệ là thề: Dấu rìu khắc chữ nào phai, ngày mai ly khách thành tài đẹp duyên! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Các chữ Cân (rìu), Ngôn (chữ, lời nói) và Tài (tài năng) ghép thành chữ Thệ nghĩa là Thề (Thề nguyền, Ước thề)

vế ra: Mưa tuôn ngập khắp Ruộng đồng, tạo ra tiếng Sấm hư không giữa trời (Vũ Quang Long)(chiết tự chữ LÔI (雷): Sấm chớp nổi lên khi trời đổ cơn mưa (VŨ 雨) khắp trên đồng ruộng (ĐIỀN 田). Lôi là Sấm Sét, đứng hàng thứ 3 trong có các yếu tố quan trọng cần thiết trong sản xuất nông nghiệp, cho nên người miền Bắc có xây đền thờ Tứ Pháp : Pháp Vân – Pháp Vũ – Pháp Lôi -Pháp Điện…! Nhằm cầu mong cho nhân dân được mưa thuận gió hoà, để nhân dân chúng ta yên tâm lao động sản xuất…!!!)

vế đối: Ghế nghiêng theo tiếng côn trùng, ai đưa làn gió mông lung bên đời? (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Các chữ Kỷ (ghế, bàn nhỏ), Trùng (côn trùng) ghép thành chữ Phong nghĩa là gió)

vế ra: Làm Vua Tai phải lắng nghe những điều ngay lẽ phải, Miệng phải ban bố những sắc lệnh không trái với đạo lý luân thường, thế mới xứng đáng bậc Thánh quân (Trần Việt Hà) (Chiết tự chữ Thánh: 聖 gồm các chữ Nhĩ và chữ Khẩu ở trên ghép với chữ Vương ở dưới)

vế đối: Là Tôi Quý ở rèn luyện bao đức trọng tài cao; Lặp ở thi hành bao sách lược thật đúng ích nước lợi dân, vậy nên rạng rỡ trang Hiền sĩ. (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự chữ Hiền gồm các chữ Thần (bề tôi đối với vua) và chữ Hựu (lặp lại) ở trên ghép với chữ Bối (quý báu) ở dưới)

vế ra: Lãi to con chẳng quên lời, căng buồm chở của giữa trời sáng trăng (chiết tự chữ Doanh (贏) nghĩa là thắng lợi, lãi to. Đại ý: con một thương gia không quên (Vong) lời (Khẩu) cha dặn, nên đã thắng lợi trở về, mang theo một thuyền (Phàm) của cải (Bối) dưới trăng (Nguyệt) vàng lấp lánh. Ở đây chữ Lãi và chữ Lời cũng là từ đồng nghĩa)

vế đối:Ứng biến người nói tùy quyền, nhớ cây vững trụ trong miền cỏ xao (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Quyền (có nghĩa Đạo dùng khi biến), gồm chữ Mộc, bộ Thảo, Khấu đôi (2 chữ khẩu), chữ Nhân và chữ Trụ)

vế ra: Trăm Người trú một Mái nhà, gọi là tá Túc cũng là Tú tinh (chiết tự chữ Túc có nghĩa là đỗ lại hay dừng lại nghỉ ngơi, có âm khác là Tú “có nghĩa là các vì sao” bao gồm bộ Miên giống hình cái nón cái mũ tượng trưng cho mái nhà phía trên, bên dưới gồm bộ Nhân đứng và chữ Bách)

vế đối: Mắt Cây ai gửi bóng hình, kể chi khanh Tướng mất tình Tương giao (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Mục (Mắt) ghép với chữ Mộc (Cây) tạo thành chữ Tướng hay còn gọi là chữ Tương)

vế ra: Cô kia đội Nón chờ ai, sao cô An phận đứng hoài thế cô (khuyết danh)(chiết tự chữ An, gồm bộ miên trông giống cái nón phía dưới là chữ Nữ có nghĩa là cô gái)

(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Nhật (Mặt Trời) ghép với chữ Tự (Chùa) tạo thành chữ Thời)

vế ra: Trước Cửa nhà là cái Chợ Náo nhiệt (Vũ Quang Long)(chiết tự chữ Náo 闹 gồm chữ Môn là cửa và chữ Thị là chợ)

vế đối:Trong Tranh quê có dòng Nước Tịnh lặng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (chiết tự chữ Tịnh gồm chữ Tranh là bức tranh và bộ Thủy là nước)

vế ra: Tiếng Khuyển Hai Mồm nghe thảm Khốc, Thiên không sáo Trúc Tiếu trần gian (vế 1 chiết tự chữ Khốc (哭) gồm chữ Khuyển (犬) là chó và hai chữ Khẩu (口) là 2 cái mồm, vế sau chiết tự chữ Tiếu (笑) gồm chữ Thiên (天) và bộ Trúc (竹) là cây tre)

vế đối:Dáng Ngựa Lớn Cao trông dõng Tuấn, Lời vui Cả Khắp Hài thế nhân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vế trước chiết tự chữ Tuấn (ngựa hay)gồm chữ Mã (ngựa) và chữ Tuấn (cao lớn), vế sau chiết tự chữ Hài (vui cười) gồm chữ Ngôn (lời nói) và chữ Giai (đều khắp, cả khắp))

vế ra: Cây chôn dưới Ruộng vẫn ra Quả, Lửa đốt đáy Sông sẽ gặp Tai (Vũ Quang Long) (vế trước chiết tự chữ Quả (果) gồm chữ Điền là ruộng ở trên và chữ Mộc là cây ở dưới, vế sau chiết tự chữ Tai (災) gồm bộ Xuyên là dòng sông ở trên và chữ Hoả là lửa ở phía dưới)

vế đối:Người không ở Hai lòng sinh Nhân, Trời soi gặp Vua ắt phát Vượng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vế trước chiết tự chữ Nhân (lòng nhân ái) gồm chữ Nhân (người) và chữ Nhị (hai); vế sau chiết tự chữ Vượng gồm chữ Nhật (Mặt Trời)và chữ Vương (Vua))

vế ra: Lửa mà đốt dưới gốc Cây, anh hùng hào Kiệt ra ngay giúp đời (Vũ Quang Long) (chiết tự Kiệt 杰 bao gồm chữ Mộc là cây ở trên và chữ Hỏa là lửa ở dưới)

vế đối:Mặt Trời sáng giữa lương Tri, trượng phu tài Trí giải nguy cứu người (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (chiết tự chữ Trí gồm chữ Nhật (Mặt Trời) và chữ Tri (biết))

vế ra: Bên Trong Một tấm lòng vàng, Của tiền coi nhẹ xứng hàng Quý nhân (Đỗ Đình Bao) (chiết tự chữ Quý 貴 bao gồm chữ Trung nghĩa là bên trong, chữ Nhất nghĩa là một đè lên chữ Bối nghĩa là của cải)

vế đối:Dưới Mái Một Miệng ban lời, Đất tổ giữ vững truyền đời Phú gia (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (chiết tự chữ Phú gồm bộ Miên có hình như mái nhà, chữ Nhất, chữ Khẩu và chữ Điền)

vế ra: Nhà Yên Hai Chục Miệng ăn, Lửa đun hướng Bắc khó khăn chất chồng (Hoàng Trần Tư) (chiết tự chữ Yên 燕 gồm chữ Trấp trên cùng có nghĩa là Hai Mươi, đúng của nó là bộ Thảo ghép với chữ Nhất nhưng được viết liền nên thành chữ Trấp. Dưới chữ Trấp có chữ Khẩu là cái Miệng, chữ Khẩu lại nằm lọt giữa chữ Bắc là phương Bắc, dưới cùng có bộ Hỏa nghĩa là lửa vậy)

vế đối: Nước Chu chỉ Một Miệng ban, Tường xây hành Thổ hân hoan trùng trùng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (chiết tự chữ Chu gồm chữ Vi (tường rào), chữ Khẩu và chữ Thổ)

vế ra: Biên Cương có Đất hình Cung, cạnh bên hai Ruộng be chung Ba bờ (Hoàng Trần Tư) (chiết tự chữ Cương 疆 gồm chữ Thổ là đất nằm gọn trong chữ Cung nghĩa là cái Cung tên, bên cạnh gồm chữ Tam là Ba xen giữa là 2 chữ Điền có nghĩa là Ruộng)

vế đối: Thành Lũy Hai dây Cỏ mây, phủ lên ba Đất che dày một Cây(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (chiết tự chữ Lũy (loài cây mây bò leo) gồm bộ Thảo (cỏ), 3 chữ Điền (đất) và 1 chữ Mộc (cây))

vế ra: Ra đường chẳng hỏi tính danh, thấy Không Quần Áo biết anh họ Bùi (Hoàng Trần Tư) (chiết tự chữ Bùi 裴 gồm chữ Phi có nghĩa là không ở trên và chữ Y có nghĩa là Y Phục bên dưới, vậy ra ngoài đường hễ gặp ai không mặc quần áo chắc chắn là người họ Bùi hoặc người tên là Bùi rồi)

vế ra: Tay em làm gối ÊM ghê, thiếu EM đêm đến anh Ê cái đầu. Rờ RÂU râu rụng phát rầu, không RỜ râu rụng anh ÂU lo nhiều (khuyết danh) (chiết tự EM + Ê, R + ÂU)

vế đối: Lời anh dẫn lối AN nhà, mất ANH đời ghẹo em A bờ cờ. Thờ THƠ thơ phát bất ngờ, chẳng THỜ thơ quạnh em Ơ hờ hoài (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

vế ra: Mẹ đội thúng me, em e nặng mẹ (khuyết danh) (câu này hay ở chỗ vừa tức cảnh, nhưng từ ngữ lập đi lập lại và vế sau là đánh vần chữ “mẹ”. Em tức M ghép với E dưới có dấu Nặng thành chữ Mẹ)

vế ra: Ba Sắc thuốc giùm Bá, đổ Bã ra Ngã Ba (Đỗ Đình Bao) (Chiết tự 2 chữ: Ba + dấu Sắc = Bá và Bã bỏ dấu Ngã = Ba, đại ý câu này nói rằng Ba “tức Bố” sắc thuốc cho Bá “anh Bố hoặc chị Mẹ” uống, uống xong đem Bã ra ngoài ngã Ba mà đổ đi)

vế đối: Con hiếu hạnh rạng tổ tiên, phận Gái nết Tốt sinh duyên lưu truyền (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Hán: Hảo (tốt) = Tử (con) + Nữ (gái))

vế ra: Mười Một Sĩ tử đi thi, thề cùng Đất mẹ quyết ghi bảng vàng (Vũ Quang Long) (câu này chiết tự 2 chữ 士 Sĩ có nghĩa là người có danh phận trong xã hội, ở đây Sĩ tử là học trò và 土 Thổ có nghĩa là Đất…2 chữ này đều được ghép bởi chữ Thập là số 10 và chữ Nhất là số 1 cộng vào thành 11…ở đây chỉ có 1 chi tiết khác nhau rằng ở chữ Sĩ thì chữ Nhất nằm dưới ngắn hơn nét ngang chữ Thập ở trên còn ở chữ Thổ thì ngược lại nét ngang chữ Thập ngắn hơn nét ngang nằm dưới…đại ý câu này nói rằng có 11 anh học trò cùng quê hương rủ nhau đi thi, trước khi lên đường đã tuyên thệ với đất mẹ rằng sẽ quyết tâm ghi tên vào bảng vàng)

vế đối: Mười Hai Chủ tướng tấn công, giữ nguyên Ngọc tỷ thỏa lòng dân đen (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết chữ Chủ gồm bộ Chủ (đứng trên đầu) cùng chữ Thập và hai chữ Nhất; chữ Ngọc cũng gồm bộ Chủ (đứng trong bụng dưới) cùng chữ Thập và hai chữ Nhất)

Vế ra: Đêm rừng hành quân đói và KHÁT, nghe lời CA HÁT ÁT tiếng bom (Đỗ Đình Bao) (Chiết tự chữ Khát theo 2 cách: K (Ca) + HÁT hoặc K (Ca) + H (Hát) + ÁT…vế xuất này lấy ý từ câu “tiếng hát át tiếng bom” nói về giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước, bộ đội hành quân vất vả vừa đói vừa khát nhưng nghe lời ca hát của các văn công mà quên đi những gian khổ, thậm chí lấn át cả tiếng bom đạn của quân thù)

Vế đối: Ngày quán đánh độ dụ với CHỜ, đi nước CỜ HỜ Ờ qua chuyện (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự chữ Chờ theo 2 cách: C(Cờ) + HỜ hoặc C(Cờ) + H (Hờ) + Ờ)

Bài thơ Chiết tự viết về mùa Thu của Bảo Minh Trang (1 thành viên của Việt Nam Thi Đàn). Trong bài thơ này, mỗi câu đều có một chữ Hán được sử dụng phương thức chiết tự rất độc đáo:

Câu 1 bộ Thu và bộ Tâm ghép lại thành chữ Sầu, câu 2 bộ Mục và Thảo + Tịch ghép lại thành chữ Mộng, câu 3 bộ Kiến và bộ Vương ghép lại thành chữ Hiện, câu 4 bộ Khẩu và Kim ghép lại thành chữ Ngâm, câu 5 bộ Nhân và bộ Sơn ghép lại thành chữ Tiên, câu 6 bộ Môn và bộ Nguyệt ghép lại thành chữ Nhàn, câu 7 bộ Điền và bộ Lực ghép lại thành chữ Nam, câu 8 bộ Đao và bộ Tâm ghép lại thành chữ Nhẫn

vế đối: Nhật tỏa thiên Thanh thắm cảnh Tình, Tâm ghi Mục Mộc Tưởng như hình, Cô Phương thân Lữ đời mưa gió, Nhật Nguyệt chan hòa tâm trí Minh, Kim tỏa Vương Cầm câu nghĩa khí, Thi trao Ngôn Tự phát anh linh, Thảo qua Ương sáng trang Anh tuấn, Tông tổ Hỏa ngời rạng tiếng Vinh(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Câu 1: chữ Nhật và chữ Thanh ghép lại thành chữ Tình, câu 2: chữ Tâm + Mục + Mộc ghép lại thành chữ Tưởng, câu 3: chữ Cô và chữ Phương ghép lại thành chữ Lữ, câu 4: chữ Nhật và Nguyệt ghép lại thành chữ Minh, câu 5: chữ Kim và bộ Vương ghép lại thành chữ Cầm, câu 6: chữ Ngôn và chữ Tự ghép lại thành chữ Thi, câu 7: chữ Thảo và chữ Ương ghép lại thành chữ Anh, câu 8: chữ Tông và bộ Hỏa ghép lại thành chữ Vinh)

vế ra: Kìa Ba cô Gái Gian tà, Gia đình chẳng có chuyên rà các Anh (Trần Việt Hà)(câu này trước hết phải nói về con số 3, theo cách gọi số từ thì cứ 3 trở nên sẽ được tính là số nhiều…ví như 1 người hát gọi là đơn ca, 1 người đàn là độc tấu…đến 2 người hát thì gọi là song ca song tấu, nhưng đến 3 người thì đã gọi là tốp ca, hoà tấu rồi..vậy nên có câu thành ngữ “quá tam 3 bận”… Gian tà ở đây hiểu theo góc độ gian giảo và tà dâm, như vậy nghĩa của câu này đã rõ, đại ý nói những cô gái làng chơi (ngày xưa gọi là lầu xanh hay cô đầu nhà thổ, ngày này gọi là gái gọi hoặc ca ve) rất là gian giảo dâm đãng, không chịu thành gia lập thất ổn định gia đình làm ăn lương thiện mà chỉ mang cái vốn tự có trời cho chuyên đi mồi chài các anh (ở đây chữ rà có nghĩa là rà soát tìm kiếm các đại gia giàu có, lục ví, mõi tiền của những người đàn ông phong lưu đa đình) để nuôi bản thân, không hề chịu lao động chân chính…đương nhiên độ khó của vế đối này vẫn thuộc về mảng chiết tự ở cả 2 khía cạnh Hán Ngữ và Quốc Ngữ, về phần Hán Ngữ sẽ chiết tự chữ 姦 Gian có nghĩa là gian dâm được ghép bởi 3 chữ 女 Nữ có nghĩa là 3 cô gái…về phần chữ quốc ngữ, thì cũng là chiết tự bởi chữ Gian luôn được ghép bởi chữ Gia + N (anh)…rõ ràng không có gia đình mà chỉ chuyên đi rà các anh để lấy tiền của tiêu sài thì không là Gian thì là gì)

Vế đối: Này Ba cái Nhất Tam hành, Ta lo giàu, dạy, việc dành mấy Em (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Hán: Chữ 三 Tam do ba chữ 一 Nhất hợp thành. Tiếng Việt: Tam = Ta + M (em mờ). Ý vế đối: Thật ra tệ nạn mua bán dâm không chỉ một chiều là do các cô gái, vả lại cũng do hoàn cảnh đưa đẩy cho nên có người vì chữ Hiếu mà phải đành chịu sa vào lầu xanh (như nàng Kiều). Để giải quyết vấn đề này, nhà nước, xã hội, gia đình và mỗi cá nhân cần có 3 điều thực hành là: 1.làm sao cho dân giàu. 2. Phải dạy dỗ chu đáo các thế hệ hậu sinh; và 3. Tạo đủ công ăn việc làm cho dân chúng).

vế ra: Gái Chưa Xuất Giá là Em, đợi người Xuất Sắc buông rèm Nhập Gia (Trần Việt Hà)(Câu này ý nói 1 cô gái chưa lấy chồng, đang chờ đợi người xuất sắc – tức là tài giỏi, ưu tú – để sẵn sàng theo về nhà làm vợ…tuy nhiên độ khó của nó nằm ở mảng chiết tự. Thứ nhất là chữ 妺 Muội có nghĩa là người em gái, được ghép bởi chữ 女 Nữ có nghĩa là con gái và chữ 未 Vị có nghĩa là chưa. Thứ 2 chiết tự chữ 嫁 Giá có nghĩa là lấy chồng, chữ này được ghép bởi chữ 女 Nữ có nghĩa là con gái và chữ 家 Gia có nghĩa là nhà. Như vậy chữ Gái ở vế ra có 2 nhiệm vụ, 1 để ghép vào chữ Vị để thành chữ Muội và 2 để ghép vào chữ Gia để thành chữ Giá…Đặc biệt câu này còn có chiết tự chữ Quốc Ngữ đó là chữ Giá, bỏ dấu Sắc đi sẽ thành chữ Gia, chữ xuất sắc hiểu theo nghĩa đen là trên cả tài giỏi nhưng nghĩa chiết tự lại là vứt dấu sắc đi, trong Hán tự chữ Xuất cũng có nghĩa là vứt bỏ…và điểm lưu ý cuối cùng là chữ Xuất có nghĩa là ra đối với chữ Nhập có nghĩa là vào)

Vế đối: Thành nầy vuông vắn nhã Thanh, sâu Nặng Ngày Thạnh Huyền Thành giữ Ngôn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ 成 Thành đầu câu chỉ về cái thành vuông 10 dặm. Chữ 誠 Thành gần cuối câu chỉ lời nói thành thật, do chữ 言 Ngôn và chữ Thành đầu câu ghép lại. Chữ Thành ghép chữ 日 Nhật thành chữ 晟 Thạnh có nghĩa là ánh sáng Mặt Trời rực rỡ. Thanh + dấu nặng = Thạnh. Thanh + dấu Huyền = Thành. Ý vế đối: Người dân thành này chú trọng đến thời kỳ phát triển rực rỡ đời sống và tính chân thành của tấm lòng người dân thể hiện qua lời ăn tiếng nói.)

Nhà thơ Thế Lữ – vị Chủ Soái của phong trào Thơ Mới – có bài thơ Tiếng Sáo Thiên Thai sống mãi trong lòng những người yêu Lục Bát Việt Nam:

Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng xa bay…

vế ra: Tên Tre Trương Trước Cung Dài, Trường Sơn Huyền thoại đuổi loài ngoại xâm (Trần Việt Hà) (Câu này phải giải thích bắt đầu từ Cây Tre Việt Nam, đã được nhà thơ Nguyễn Duy mô tả chi tiết trong bài Tre Việt Nam nổi tiếng. Thời bình cây tre được sử dụng làm nhà cửa như trong bài hát “Cô Gái Vót Chông” – nhưng mai đây giặc chạy rồi, tre rừng ta làm nhà, làm chòi cao… Còn thời chiến lại là 1 thứ vũ khí sắp bén, có thể vót thành chông để đặt bẫy quân thù hoặc chế tạo thành mũi tên để ngăn chặn bước tiến của chúng. Thơ du kích của Bác Hồ có đoạn: “không có súng, ta dùng dao, ta dùng cuốc, ta dùng cào, ta lấy đòn gánh, ta nhổ cọc sào”…đòn gánh, cọc sào ở đây đều là những đồ vật làm bằng Tre vậy. Trong truyền thuyết dân gian, khi kiếm sắt bị gãy, Thánh Gióng đã nhổ tre nên quật tan tác giặc Ân, đó là điển hình về việc chiến tranh du kích. Như vậy vế xuất ở đây chúng ta có thể hiểu nôm na rằng: “mũi Tên bằng Tre lúc nào cũng giương sẵn ở vành cung, tức là quân đội và nhân dân ta luôn sẵn sàng ứng phó với mọi tình thế, giặc đến lập tức ta sẽ tổ chức kháng chiến để đánh đuổi ngay lập tức, Trường Sơn huyền thoại ở đây nói về cuộc “Trường kỳ kháng chiến xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Dải Trường Sơn ở phía Tây khác nào cái dây dung, chứa đựng bao nhiêu mũi tên lúc nào cũng “nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Nhìn trên bản đồ Thế Giới, nước Việt Nam chữ S uốn lượn theo hình vành cung, điểm nhô ra cực đông thuộc vùng Bình Định – Phú Yên – Khánh Hoà. Trông chẳng khác nào chiếc cung đang căng dây giương ra biển Đông, sẵn sàng chống trả kẻ thù nhòm ngó non sông gấm vóc mà cha ông ta đã mở mang xây dựng tự ngàn xưa. Tuy nhiên sự lắt léo của câu đối này lại nằm ở mảng chiết tự…thứ nhất là chữ 張 Trương có nghĩa là giương ra, phình ra được ghép bởi chữ 弓 Cung có nghĩa là cái Cung – một thứ vũ khí dùng để triệt hạ các vật từ xa – và chữ 長 Trường có nghĩa là Dài. Thứ 2 ở đây chiết tự chữ 箭 Tiễn có nghĩa là mũi tên, được ghép bởi bộ 竹 Trúc có nghĩa là cây Tre ở phía trên và chữ 前 Tiền có nghĩa là Trước ở phía dưới. Bên cạnh đó, còn có phần chiết tự chữ Quốc Ngữ là chữ Trương, thêm dấu Huyền vào sẽ thành chữ Trường. Huyền trong Hán tự còn có nghĩa là dây cung, ngoài ra chữ Dài của vế trên câu đối và chữ Trường của vế dưới câu đối là âm Hán Việt cùng nghĩa)

Vế đối: Lòng Binh Bạch Chí Thuyền Không, Bạch Đằng Ngang dọc biển Đông du tuần (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Hán: 志 Chí = 士 Sĩ (binh) + 心 Tâm (lòng). 舶 Bạch (thuyền lớn) = 舟 Chu (thuyền nhỏ, đò) + 白 Bạch (trắng, không (không có gì)). Tiếng Việt: Bạch + dấu Ngang (không dấu)= Bạch. Thanh “Ngang” tức là thanh “Không” dấu, Không tức là Bạch trong Hán Việt). Ý vế đối: Lòng binh sĩ bộc bạch ý chí: Biển Đông là tập hợp của những dòng Bạch Đằng đan xen chảy ngang dọc khắp nơi trong lãnh hải của nước Việt. Dùng thuyền (tương lai khoa học phát triển, có thể dùng thuyền không, tức là thuyền không người lái) nghiêm ngặt du tuần là một biện pháp góp phần bảo vệ biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc ta.)

Có hai bố con người thợ sửa xe máy, trên đường đi lấy phụ tùng về thì gặp trời mưa,sợ ướt cái bao bố đựng bố thắng ông bố liền lấy bao bao lại,cậu con trai không biết nên hỏi. Bố đang làm gì đấy? Ông bố liền đáp:

vế ra: Nàng Hai bắt cá nàng hai, hái lá nàng hai đem từ La Hai vào chợ Phạm Văn Hai, bán được hai triệu hai (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (La Hai là thị trấn ở Phú Yên, Chợ Phạm Văn Hai ở TP. Hồ Chí Minh. Nàng Hai là danh từ riêng nàng ấy có tên là Hai. Cá Nàng hai là danh từ chung, là loài cá thuộc dòng thát lát, Lá Nàng hai là danh từ chung ,đó là cây nàng hai chữa được rất nhiều bệnh)

vế ra: Chả nướng chả chứ chả chả nướng chả (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (nghĩa là chả (hắn) nướng chả (thịt) chứ hắn không nướng chính hắn)

vế đối: Lọ dính lọ chứ lọ lọ dính lọ (nghĩa là cái lọ dính lọ (nhọ nồi) chứ không dính cái lọ khác ; lọ cũng có nghĩa phủ định như chả)(Thiền Long)

Đúng 8h30 ngày 21/8/2016 đường lên đỉnh Olymbia được khởi hành chặng cuối về đích. Bạn Tiến Tùng học sinh trường chuyên Nguyễn Du Đaklak được vào chung kết. Hứng khởi trước sự kiện lần đầu tiên đaklak có cầu truyền hình trực tiếp Hoài Anh có đưa ra một vế xuất hầu động viên bốn chàng trai về đích:

Vế ra: THẾ CÔNG của ngành THỐNG KÊ toàn những KẾ THÔNG (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

Vế đối: KẾ TINH riêng khoa KINH TẾ đâu chỉ KÊ TÍNH (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Vế ra: Điểm danh những Điểm thi, thi Điểm đạt Điểm thi cao (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

Vế đối: Pháo kích các Pháo thủ, thủ Pháo thành Pháo thủ giỏi (Thiền Long)

Vế ra: Lái tàu chở GA, lên GA, mau về GA, để vui thả GA (Hoài Anh Võ Quang thạch) (chứ “ga” đầu tiên là “khí đốt”, “ga” thứ hai là “ga tăng giảm tốc độ của máy”, “ga” thứ ba là “nơi dừng, đỗ của xe lửa”, “thả ga” thứ tư ý nói vui hết cỡ)

Vế đối: Thi cờ thắng NƯỚC, uống NƯỚC, vội chuyển NƯỚC, lại đấu đục NƯỚC (Thiền Long) (Vế đối có nước cờ, nước uống, nước = Quốc gia. Đấu đục nước là thi đấu sôi nổi gay cấn đối với vui thả ga là vui hết cỡ)

Hôm Chủ Nhật 16/10/2016…do có nhiều nhân viên mới nên họ hăng hái muốn làm tăng ca cho kịp tiến độ sản xuất, anh em công nhân viên chức toàn công ty đều bận rộn. Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh cảm động trước tấm chân tình của thuộc cấp nên quyết định một mình đảm nhận nhiệm vụ trông coi kho bãi của công ty, cũng vừa kết hợp kèm cặp nhắc nhở và động viên tinh thần cho họ. Nhân đó, người em con bà cô ruột của ông là Hoài Anh Võ Quang Thạch cảm hứng đưa ra vế xuất độc đáo như sau:

Vế ra: Ông Tư vô thi đàn, vô tư viết bốn câu thơ tứ tuyệt (Hoài Anh Võ Quang Thạch) Tư = Tứ = Bốn

Vế đối: Lão Nhị tế tổ nghiệp, tế nhị đàn hai bản nhạc song ca (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) hai= song = nhị

Chúc mừng ngày hiến chương nhà giáo 20/11/2016, ông Hoài Anh Võ Quang Thạch có đưa ra 1 vế thách như sau:

Vế thách hay, tự nhiên về nội dung lẫn cú pháp! Đúng tinh thần tôn sư trọng đạo. Các khóa hóc búa tiềm ẩn một khéo léo, có các từ Hán chỉ các tên gọi các vai vế trong gia đình. Danh từ “đệ”(em) ghép dt “tử”(con) ra dt ghép “đệ tử”. “tôn”(cháu)= động từ tôn trọng, “sư”=”thầy”=bố, “công”=”cụ, ông”, đại từ “y”(anh ấy)= giống như (tính từ so sánh bằng). Đại ý: Học trò quý trọng thầy cô như cha mẹ của mình. Vế đối có dt ghép “phu huynh”(anh chồng) được ghép bởi dt “phu”(chồng)+”huynh”(anh),”tế”(rể)= động từ “cúng tế”, “tổ”=”ông”, “thân”=cha mẹ ruột. đại từ “tỷ”(chị)= “giống như” (vd:”..thọ tỷ nam sơn…”(trường thọ như núi nam). ” quý”(con út),”tiên”(ông cao tiên, trên ông tổ) ,”tiên” còn là như tiên, thánh. “quý tiên” là các bậc tiên thánh. Đại ý: Anh chồng cúng nội tổ có thân thế như các bậc tiên thánh

Ai trong mỗi chúng ta cũng có một thời đi học và được học. Cái sự học đó đi đến đâu thành công hay dang dở thì trong lòng mỗi người luôn có hình ảnh của người thầy đáng kính. Nhân dịp ngày lễ hiến chương các nhà giáo ông Hoài Anh Võ Quang Thạch xin gởi tới quý nhà giáo lời chúc tốt đẹp nhất, và lời tri ân sâu sắc nhất. Hết học ở trường lớp lại phải học ở trường đời. Bạn bè cũng là những người thầy để chúng ta học hỏi mong hoàn thiện bản thân hơn. “Học, học nữa, học mãi” (Vl LENIN). Nhân đây, ông có đưa thêm một vế ra mạo muội kính tặng nhà giáo Nguyễn Hữu Quyến và giáo sư Hoàng Minh Tuyển kính mời mọi người tham đối:

Những mảnh đời xếp bốc cơ cực, quanh năm bán sức ăn dần, cõng trên lưng trên vai khối lượng gấp đôi gấp ba cơ thể mình…đắp đổi cuộc sống qua ngày bằng những nhọc nhằn khó khăn vất vả…mà vẫn bị o ép gian lận, đó là nghề bốc vác hay còn gọi là Cửu Vạn. Nhân chứng kiến việc tính nhầm số lượng gạch vạn vạn thiên thiên, ông Hoài Anh Võ Quang Thạch có vế xuất:

Vế ra: CỬU VẠN ẤM ỨC, VỨT TAM THẤT TRÊN NGÀN (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Ý vế đối nói về anh chị “Cửu Vạn” có nghĩa là nghề bốc vác, vì “ấm ức” nên bỏ lại củ “TAM THẤT” trên rừng” NGÀN” không vác nữa. Ở đây còn có phép tính nữa. 9 vạn (Cửu Vạn) = ỨC (10 vạn)-(3+7)× Ngàn. Từ Cửu Vạn tuy là nghề bốc vác nhưng theo hán văn nó là những con số. Còn Tam Thất là tên thuốc nhưng nó cũng là những con số) Vế tự đối: BA BA SUY TƯ, VÙI NĂM HAI TRONG BẢY (Hoài Anh Võ Quang Thạch)BA(3)BA(3) = TƯ(4)×(5 “NĂM”×2″ HAI”)-7 “BẢY” rút gọn: 33=(4×10)-7. Trong đó: BABA là người cha hoặc là con Ba Ba. NĂM HAI là bộ bài tây, là tiếng lóng của dân cờ bạc ở trên Đaklak vì ở trên Đaklak có địa danh là 52 với lại bộ bài có 52 lá. Ví dụ: người ta hỏi có đi 52 không? Tức là có đi đánh bài không? BẢY là cái nồi đồng xưa ở vùng nam trung bộ người ta hay gọi là cái Bảy). Câu này có thể đổi là: BA BA SUY TƯ, NGẮM TỨ LỤC TRONG THẤT Thất là nhà. “TỨ LỤC” có nghĩa là một vì sao, hoặc 1 thể loại văn có đối không vần) Vế đối khác 1: TỨ LINH NGÃ NGŨ, PHẠT BA LĂM ĐƠN ĐỘC (

Gà Cao Lãnh Có Những Giai Thoại Và Đặc Điểm Gì ?

GÀ CHỌI CAO LÃNH VÀ GIAI THOẠI KHI XƯA

Gà Cao Lãnh có xuất xứ ở vùng đất Cao Lãnh thuộc Đồng Tháp, từng được xem là một giống gà quý hiếm và ưu chuộng của vùng đất Lục Tỉnh Nam Kỳ ngày xưa. Mặc dù ngày nay có nhiều giống gà có thể trạng hay kỹ năng tốt hơn nhưng gà chọi Cao Lãnh vẫn luôn có chổ đứng nhất định trong lòng người chơi gà bởi những đặc điểm rất riêng của mình. Trong những giai đoạn cực thịnh của gà chọi Cao Lãnh, giống gà này được đánh giá một trong những chiến kê xuất sắc ở xứ Lục Tỉnh Nam Kì lúc bấy giờ. Sở hữu lối đánh hay, nhanh nhạy, tinh anh cùng cách ra đòn cũng rất bài bản, vượt trội hơn hẳn những giống gà chọi lúc bấy giờ. Gà Cao Lãnh khi thi đấu cựa sắt thường tung những đòn độc, hay dùng vỉa tối, vỉa sáng hoặc tung cước song phi hai cựa, mang đến những cảm giác mãn nhãn cho người xem.

Trong những giai đoạn hoàng kim, gà chọi Cao Lãnh có thể tung những cú đá chém một cách liên tục kết hợp với những cú song cựa, phi đao…Chính vì vậy, mà thời điểm bấy giờ gà Cao Lãnh gần như không có đối thủ xứng tầm. Các trận đấu có mặt của dòng gà này cũng được rất nhiều người quan tâm, đến xem bởi những cú đá đẹp mắt, gay cấn và thú vị. Tuy nhiên, theo thời gian việc lai tạo và chăm sóc không tốt nên giống gà chọi Cao Lãnh đã dần bị mai một đi.

GÀ CAO LÃNH CÓ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM GÌ

Gà Cao Lãnh có nguồn gốc là sự lai tạo giữa giống gà chọi Việt và giống gà Miên, do đó mà giống này này có được lối đá chém đặc trưng của gà Việt cũng như sự bền đòn của gà Miên. Thể trạng của gà Cao Lãnh cũng không quá cao lớn, chỉ vừa tầm. Với chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng và huấn luyện tốt thì khoảng 1 năm sau đã có thể đem đi đá được.

Tuy nhiên, nhược điểm của gà chọi Cao Lãnh đó chính là màu lông của con trưởng thành có màu lông chuối không được nhiều người đánh giá cao do bị phá tướng. Tuy nhiên, một đặc điểm khác khá thú vị về giống gà này đó chính là nếu thấy được hai con gà Cao Lãnh cùng màu lông giống nhau trong cùng một trang trại thì khi con kia đá, cho con này gáy lừng ở ngoài sẽ giúp trận chiến đó lợi thế hơn, tỷ lệ thắng rất cao. Đặc tính của gà chọi Cao Lãnh thường rất hung hăn, máu chiến cùng với lối tung cước đẹp mắt, lối đánh tinh anh, thông minh cùng sức khỏe và khả năng bền đòn rất tốt. Ngoài ra còn có các đặc điểm khác như sau : + Cựa gà rất nhạy, có thể đá chém liên tục + Có thể tung một lúc hai cựa tấn công đối thủ như cặp phi đao. + Thế đánh nhanh và hiểm cùng nền tảng sức khỏe, thể lực rất tốt. + Hay thực hiện vỉa sáng, vỉa tối đặc trưng.

GIÁ BÁN GÀ ĐÁ CAO LÃNH BAO NHIÊU, MUA Ở ĐÂU

Hiện nay, vẫn còn khá nhiều người ưu chuộng về giống gà chọi Cao Lãnh từng khuấy động các tỉnh Nam Kì xưa kia. Do đó mà vẫn còn nhiều các trại nuôi giống gà này bởi cách chăm sóc, nuôi dưỡng không quá khó nhưng giá bán lại tốt. Giá bán của gà Cao Lãnh cũng tùy vào từng con, phụ thuộc nhiều vào hình thể, kỹ năng, lối đánh…mà việc định giá sẽ khác nhau. Địa điểm bán gà Cao Lãnh nổi tiếng nhất và tốt nhất phải kể đến chợ Lách ở Bến Tre khi gà ở đây luôn có những lối đánh hiểm, đòn cáo cùng sự tinh anh, nhanh nhẹn trong các cú ra đòn. Tuy nhiên, để có được một chú gà chọi Cao Lãnh tốt cũng nên phải quan tâm yếu tố tông dòng, các đời trước ra sao để lựa chọn.

Ngoài ra, còn có các trại gà nổi tiếng khác như trại gà Đồng Tháp, trại gà Thu Hà, Gò Công (Tiền Giang), Phong Điền (Cần Thơ), Long Hồ (Vĩnh Long)…Các bạn có thể đến trực tiếp xem gà cũng như nhờ sự tư vấn thêm của những người chủ trại bởi các hoạt động ở những trại gà này rất tập nập, đông đúc.

KỸ THUẬT XEM VẢY GÀ CAO LÃNH QUÝ HIẾM

VẢY THẤT ĐAO THIÊN

Đây là loại vảy gồm 7 vảy nhỏ gộp nên, hình giống như xiên đao mọc từ gối đến cựa, gà chọi Cao Lãnh khi sở hữu loại vảy này được đánh giá là Sát Kê trong mọi đấu trường. Các đòn đánh nhẹ nhưng rất hiểm và cáo cùng lối đá linh hoạt, nhanh nhẹn nhưng cũng dứt khoát, mạnh mẽ, từ đó mà có thể hạ đo ván đối thủ trong thời gian ngắn.

VẢY KÍCH GIÁP

Có hình dạng giống vảy quấn cán, mọc cách gối 4 hàng vảy. Khi gà chọi Cao Lãnh sở hữu loại vảy này thì khả năng ra đòn rất nhanh nhẹn, uy lực, hạ gục đối thủ nhanh chóng cho dù đáng gờm tới đâu.

VẢY GIÁP VI ĐAO

Đây là loại vảy gồm 3 vảy nhỏ gộp lại, nằm ở hàng nội nhìn giống như đầu nhọn của mũi đao. Khi gà Cao Lãnh sở hữu loại vảy này sẽ có những cú đòn cáo, đòn hiểm cùng lối đánh liên tục, lấn áp đối thủ. Từ đó khi giao chiến dễ dàng đánh gục và dành chiến thắng một cách nhanh chóng.

3 HÀNG VẢY TRÊN CÁN

Gà Cao Lãnh sở hữu 3 hàng vảy trên một cán và xếp song song với nhau là một trong những chiến kê hiếm thấy, văn võ song toàn. Khi thi đấu gần như bất bại trên các trận đấu bởi những cú tung đòn có thể làm trọng thương hoặc khiến đối thủ tử vong tại chổ.

Vịt Nuôi Bao Lâu Thì Đẻ Trứng? Hỏi Đáp Mactech Việt Nam

Máy ấp trứng vịt – Vịt là giống thủy cầm có thời gian nuôi ngắn cho hiệu quả kinh tế cao. Chăn nuôi vịt cũng có thể nuôi theo hướng thương phẩm hoặc lấy trứng. Khi nuôi vịt lấy trứng, thông thường các giống vịt siêu trứng sẽ có thời gian đẻ nhanh hơn vịt thông thông thường và sản lượng trứng cũng cao hơn (trung bình 250 trứng/năm). Tùy theo từng giống vịt khác nhau mà thời gian đẻ trứng cũng khác nhau nên trong bài viết này Mactech sẽ đưa ra thời gian đẻ của các giống vịt phổ biến hiện nay để các bạn biết vịt nuôi bao lâu thì đẻ trứng.

Vịt nuôi bao lâu thì đẻ trứng

Lưu ý là các thông ở bảng trên được ghi nhận theo từng giống và đánh giá theo con số trung bình khi đàn có 5% vịt mái đẻ trứng đầu tiên. Thực tế các bạn nuôi vịt tùy vào môi trường hay điều kiện dinh dưỡng mà thời gian vịt thành thục có thể dao động 1 – 2 tuần.

Nên nuôi vịt đa dụng hay vịt chuyên trứng

Với thời gian đẻ của một số giống vịt như trên, có thể thấy rằng đa số các giống vịt đều có thời gian đẻ trong khoảng 140 – 160 ngày. Cá biệt có một số giống vịt đẻ sớm ở 112 ngày tuy nhiên không nhiều. Vậy nên, nếu các bạn đang phân vân vấn đề nuôi vịt đa dụng vừa lấy thịt vừa lấy trứng hay nuôi vịt chuyên trứng thì tùy vào mục đích nuôi. Vịt đa dụng hay vịt chuyên trứng nếu nuôi lấy trứng thì đều như nhau nhưng vịt chuyên trứng sẽ cho sản lượng trứng cao hơn. Vịt đa dụng sau khi hết thời gian lấy trứng sẽ bán được giá hơn vịt chuyên trứng. Mỗi giống vịt lại có đặc điểm khác nhau nên các bạn tùy theo mục đích mà chọn dòng vịt nào cũng đều rất tốt.

Như vậy, với câu hỏi Vịt nuôi bao lâu thì đẻ trứng các bạn chắc đã có câu trả lời rồi phải không. Tùy vào từng giống vịt mà thời gian đẻ trứng có thể sớm hoặc muộn. Vịt Hòa Lan và vịt Triết Giang nuôi khoảng 112 ngày bắt đầu đẻ. Các giống vịt khác có thời gian đẻ trứng vào khoảng 140 – 160 ngày.

Gà Xám Thần : Huyền Thoại Gà Chiến Việt Nam

Gà Xám Thần là cái tên huyền thoại trong giới đá gà Việt Nam. Đây là con gà chiến thỏa mãn mọi kỳ vọng của người chơi gà. Chú dũng mãnh, thiện chiến bất chấp đối thủ, điều kiện. Cho đến nay, khi Xám Thần chỉ còn tồn tại với cái tên, thì người ta cũng vẫn không thôi xuýt xoa về chú gà chiến kinh điển này.

Ngoại hình của gà Xám Thần

Gà Xám Thần được coi như một huyền thoại trong giới đá gà với thnahf tích siêu khủng của nó. Thế nhưng, chiến kê này có trọng lượng chỉ thuộc dạng trung bình là 2,8 kg. Vậy mà, chú ta đã thực sự là nỗi kinh hoàng của rất nhiều chiến kê cùng thời.

Gà Xám Thần được đánh giá là luôn có chân vảy cứng cáp, sức đá tốt. Chú có đòn đá luôn luôn có uy lực không tầm thường. Mặc dù, khi nhìn chân vảy màu trắng của nó nhiều người đã không tin nó có sức mạnh để ra những đòn đá bất bại.

Lối đá của gà Xám Thần

Xám Thần cực kì nổi tiếng với khả năng tải đòn khủng và đòn lưng sở trường bất bại trong mội thế đánh. Điều đặc biệt là, dù tong tình trạng nào, đang thay lông, kén lườn gì thì Xám Thần vẫn có thể đá chọi. Và khủng khiếp hơn là đá không thua trong tất cả những trường hợp như vậy.

Những đối thủ của Xám Thần được miêu tả là đã xây xẩm mặt mày. Thậm chí là người đen xì, mất đòn, mất lối và mất lực. Có con thì nằm bò ngay trên sân, có con nằm không đứng dậy được. Nhẹ hơn thì cũng phải 2 tiếng sau mới có thể đứng lại như bình thường được.

Cũng bởi những đòn đá với sức mạnh vô biến ấy mà những trận đấu của gà Xám Thần được những người hâm mộ cực kì đón đợi. Nhiều sư kê đã bình chọn những trận có sự góp mặt của Xám Thần luôn là những trận đá gà hay nhất mọi thời đại. Xám Thần thực sự đã trở thành một hình tượng chiến kê mẫu mực trong mắt giới đá gà.

Thành tích của gà Xám Thần

Gà Xám Thần có thành tích là 21 kỳ. Với thời gian hạ gục đối thủ còn ghi nhạn được là 5 hồ, mỗi hồ 15 phút. Số tiền mà Xám Thần mang về cho chủ sau mỗi trận đá lên đến hàng tỷ đồng. Thực sự khiến cho các sư kê khác nhìn mà ao ước.

Theo bảng hành tích khủng truyền lại, Xám Thần cũng từng đả bại rất nhiều chiến kê ngoại quốc. Dù thể hình và sức lực của những con gà chọi ngoại quốc có nhỉnh hơn. Thì với lực đá mạnh mẽ, Xám Thần đã từng tung những đòn đá xuyên phổi hạ gục đối thủ.

Bởi vậy, mà những trận đấu của Xám Thần cho đến giờ vẫn không thôi gây ngạc nhiên và ấn tượng mạnh mẽ cho người xem.

Cũng chính vì thế, mà đời sau của gà Xám Thần được các sư kê săn lùng ráo riết một thời gian. Với khả năng đỉnh cao như thế, người ta hy vọng đời sau của Xám Thần cũng sẽ hưởng được một phàn nào đó.

Gà Xám Thần là một chiến kê lẫy lừng trong giới đá gà. Ngoài ra, một vài cái tên cũng từng làm mưa làm gió trên xới gà khắp nơi như Mơ Thần – Kê Thần, gà xám Messi, gà ô Taxi, gà Xám Bất Trị, gà Tía Kinh Kong. Có những chiến kê từng được đánh giá rất cao về khả năng di chuyển và ra đòn.

Posted in Tagged CÁC LOẠI GÀ CHỌI Gà Xám Thần, lối đá của gà xám thần, ngoại hình của gà xám thần

Bạn đang đọc nội dung bài viết Câu Đối Có Giai Thoại Sự Tích Và Thơ Đối Đáp Việt Nam trên website Ngayhoimuanhagiagoc.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!