Đề Xuất 5/2023 # Gà Rừng Nhà Lai Tạo # Top 6 Like | Ngayhoimuanhagiagoc.com

Đề Xuất 5/2023 # Gà Rừng Nhà Lai Tạo # Top 6 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Gà Rừng Nhà Lai Tạo mới nhất trên website Ngayhoimuanhagiagoc.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Gà rừng nhà lai tạo

Gà rừng bản tính nhút nhát, khó thuần dưỡng nên rất khó khăn cho người chơi gà vì vậy cần phải được lai tạo với gà nhà để thuần hòa chúng, nhưng lại tạo như thế nào để gà lai vẫn còn mang dòng máu của gà rừng về hình dáng cũng như tính nét của chúng đó mới là quang trong, qua 5 năm thuần hóa và lại tạo chúng tôi đã lại tạo thành công giống gà rừng tai trắng đời  F1, F2 rất đẹp và đang cho lại tào đời F3 và một số loại gà rừng nhạn và gà rừng chuối cũng khá đẹp đá rất hay để phục vụ cho ai thích chơi gà rừng và gà rừng lai; sau đây là một số hình ảnh về gà rừng và gà rừng lai của chúng tôi.

1/ Đây là gà con từ 2 tuần tuổi đến 2 tháng tuổi:

2/ Đây là gà từ 3 tháng tuổi đến 8 tháng tuổi:

3/ Đây là những còn gà giống bố mẹ của chúng

phân biệt gà rừng thuần chủng

Gà rừng đỏ tai trắng

1. Mô tả hình thái gà rừng đỏ Gallus gallus spadiceus thuần chủng và gà rừng laiNhiều người, kể cả những người ở nông thôn, cũng thường lẫn lộn giữa gà rừng (junglefowl) rặt, gà rừng lai và gà nhà. Gà rừng lai được nhiều người ở nông thôn nuôi dưỡng và hoàn toàn khác với gà rừng rặt. Tôi thấy rất ít người nuôi gà rừng rặt, đa số nuôi gà lai giữa gà rừng, gà tre (bantam) và gà nhà. Tuy nhiên, con lai giữa gà rừng trống rặt với gà mái lai rất khó phân biệt. Mọi người hiếm khi lai kiểu này bởi vì gà rừng trống rặt mới bẫy được rất khó nuôi, hơn nữa gà lai có nhiều máu rừng cực kỳ nhạy cảm với những bệnh thông thường của gà nhà.

Tôi từng bẫy hơn 200 con gà rừng, bao gồm gà trống, gà mái trưởng thành và gà con cả trống lẫn mái. Trừ bảy con đực có màu sắc lạ, tất cả những con còn lại đều thể hiện những đặc điểm hình thái của gà rừng rặt. Năm trong số bảy con gà trống đó có nền hanh vàng với những vạch đen ở ngực và xung quanh hậu môn, lông cánh có nhiều màu vàng kim hơn so với gà rừng bình thường. Hai con gà trống còn lại đều xuất xứ từ bang Pahang, có lông bờm (hackle), lông mã và một số lông cánh rất trắng. Ngoài khác biệt về màu sắc, những con gà này có hình thái hầu như tương tự với gà rừng đỏ rặt. Có lẽ ông cha của những con gà này từng lai tạp với gà nhà. Tôi ngờ là như vậy bởi vì cả bảy con đều được bắt ở những khu rừng nhỏ bao quanh bởi làng mạc mà gà nhà thường được thả rông gần đó. Chúng tôi viếng thăm một dân làng ở Ulu Langat, bang Selangor người bắt được một cặp gà sau nhà. Những con gà này hoàn toàn khác với gà rừng bởi vì chúng to hơn, lông con trống hầu như hanh vàng còn lông con mái có màu nâu nhạt. Đây là những con gà bán hoang dã và rõ ràng là con lai giữa gà rừng và gà nhà.

Ngoài những điều trên, những con gà rừng mà tôi khảo sát đều không mấy khác biệt về mặt hình thái. Màu của gà rừng có xu hướng tương tự như màu của gà lai và thậm chí như một số gà nhà. Tuy nhiên, có một số đặc điểm hình thái, tập tính bầy đàn và hành vi điển hình mà chúng ta có thể dựa vào đó để phân biệt gà rừng rặt với gà rừng lai.

2. Gà trống trưởng thànhMàu nền của gà rừng trống trưởng thành là màu đen cùng với đủ mọi sắc độ đỏ và vàng ở cổ, cánh và lưng. Lông đuôi hẹp về phương ngang, lông phụng tá (lesser sickle) đều và ngắn hơn nhiều so với lông phụng chủ (greater sickle). Độ dài trung bình lông đuôi đo được từ 9 con gà rừng trống trưởng thành vừa bẫy được là 17.7 cm và trong tầm từ 14.3 đến 19.9 cm. Tổng số lông đuôi của một con gà trưởng thành hoàn toàn là 12, mỗi bên có 6 cái. Số lượng lông phụng tá là 4 cái mỗi bên. Ở cá thể lai điển hình, lông phụng tá dài hơn và nhiều cái cong xuống chụm vào lông phụng chủ. Màu của các lông phụng chủ và phụng tá là ánh kim đen với tông xanh. Đầu gà rừng tương đối nhỏ. Mồng lá, cứng cáp nhưng tương đối nhỏ, mỏng và răng cưa. Chiều dài mồng trung bình, đo từ gốc trước đầu cho đến gốc sau đầu, là 7.9 cm và trong tầm từ 7 đến 9.2 cm. Độ cao mồng trung bình, đo từ chóp gai cao nhất đến gốc mồng là 4.7 cm và trong tầm từ 3.9 đến 5.1 cm. Số gai mồng trung bình (kể cả các thùy nhỏ) là 9.6 và trong tầm từ 6 đến 13. Tích (lappet) và dái tai (earlobe) cũng phát triển nhưng thường nhỏ hơn gà lai và mặt có màu đỏ tía giống như mồng. Hai tích khi quan sát từ phía trước thường nằm sát hơn so với gà lai, vốn tương đối rộng. Chiều dài trung bình của dái tai là 2.4 cm và trong tầm từ 1.5 đến 3.5 cm, chiều rộng trung bình của dái tai là 2.1 cm và trong tầm từ 1.7 đến 3.4 cm. Chiều dài trung bình của tích là 3 cm và trong tầm từ 3 đến 3.4 cm, chiều rộng trung bình của tích là 2.9 cm và trong tầm từ 2.6 đến 3.7 cm.

Mồng gà mới bẫy được chuyển thành màu phớt xanh trong môi trường nuôi nhốt. Tôi thấy dái tai có nhiều màu và kích cỡ. Chúng có kích thước từ đồng xu 10 cent cho đến đồng xu 20 cent tiền Malaysia, màu đỏ tuyền, trắng tuyền hay trắng phớt đỏ, màu sau cùng phổ biến nhất. Màu xung quanh tròng đen ở hầu hết cá thể là hanh đỏ khác với đa số cá thể lai vốn trắng hay hanh vàng.

Cánh rất phát triển và dài hơn chiều dài thân, tính cả đuôi. Chiều dài trung bình của cánh khi giương hết cỡ, đo từ chóp cánh này đến chóp cánh kia là 72 cm và trong tầm từ 63 đến 76 cm. Chiều rộng trung bình của cánh là 21.9 cm và có tầm từ 20 đến 23.6 cm. Màu lông trước ngực là màu đen ánh xanh, cánh vai (wing bow) màu đỏ sẫm, lông bao (wing covert) màu đen, một số lông có những chỉ phớt đỏ, lông bay thứ (secondary flight feather) nửa đen, nửa nâu vàng và lông bay sơ (primary flight feather) màu đen với chỉ ngắn hanh vàng ở chính giữa. Số lông bao đầu tiên ở mỗi bên là 3, số lông cánh sơ ở mỗi bên từ 9 đến 11 trong khi số lông cánh thứ ở mỗi bên từ 12 đến 14.

Lông bờm chuyển từ cam hanh đỏ ở đầu cho đến đỏ hanh vàng gần xuống đến lưng. Màu lưng đỏ sẫm. Thân gà rừng khá mảnh dẻ và thuôn như chiếc thuyền, chân mảnh khảnh và trơn láng. Chiều dài trung bình của thân đo từ chóp mỏ (cổ vươn hết cỡ) cho đến phao câu (oil gland) là 36.4 cm và trong tầm từ 35 đến 38.1 cm. Chiều dài trung bình của cẳn chân là 8.7 cm và trong tầm từ 8.1 đến 9.4 cm. Đường kính trung bình của đùi là 3.5 cm và trong tầm từ 3.4 đến 3.9 cm. Chúng tôi không phát hiện thấy cá thể trưởng thành nào nặng hơn 1.5 kg và bởi vì cả điều này lẫn việc lông bay phát triển, nên gà rừng bay tốt hơn so với gà lai. Trọng lượng trung bình của gà rừng mới bẫy được là 1023.8 gram và trong tầm từ 800.3 đến 1220 gram. Cẳng chân gà rừng có màu xanh ngọc trong khi cẳng chân gà lai có màu đen xanh, hanh lục hay hanh vàng. Cựa có hình tam giác và có xu hướng cong lên ở gà già. Chiều dài trung bình của cựa ở gà trống trưởng thành từ 1.9 đến 3.2 cm.

Gà rừng trống lai mà dân làng thường nuôi hoặc lớn hơn hoặc nhỏ hơn so với gà rừng rặt. Đầu thường lớn hơn, mồng và tích cũng lớn, nhám và dày hơn. Lông ngực có những vệt hanh vàng hay nâu trên nền đen như đã nói ở trên. Một trong những khác biệt quan trọng giữa gà rừng và gà lai là tiếng gáy. Tiếng gáy của gà lai hoặc kéo dài hơn hoặc lên quá cao trước khi ngắt đột ngột so với gà rừng rặt. Gà lai cũng gáy nhiều hơn so với gà rặt. Tuy nhiên, gà lai nhiều máu gà tre có tiếng gáy gắt hơn.

Tôi từng lai gà trống rặt với gà mái lai và tạo ra bầy lai rất khó phân biệt với gà rừng rặt. Tuy nhiên, có một vài đặc điểm cho thấy đó là cá thể lai. Ví dụ, thân hơi không thuôn như hình thuyền và màu xanh ngọc ở cổ chân (tarsus) hơi sẫm hay ngả tông lục. Ngoài ra, những cá thể lai này tương đối thân thiện và có thể thả rông như những gia cầm khác trong làng.

Hình 1: một con gà rừng trống rặt trong môi trường nuôi dưỡng có lông đuôi hẹp về phương ngang cùng với hai lông phụng chủ và bốn lông phụng tá.Hình 2: một con gà rừng đỏ rặt trưởng thành hoàn với màu lông điển hình.

Hình 3: một con gà lai điển hình mà dân làng thường nuôi. Lưu ý phần đuôi – có rất nhiều lông phụng tá với xu hướng hòa vào lông phụng chủ. Màu sắc rất giống với gà rặt. Thân khá mập mạp.Hình 4: cận cảnh đầu của một con gà rừng lai điển hình với mồng và tích lớn hơn.

Hình 5 & 6: Những con gà trống lai khác mà thoạt nhìn có thể nhầm với gà rừng rặt. Lưu ý phần đuôi, có rất nhiều lông phụng tá với xu hướng hòa vào lông phụng chủ.

Hình 7 & 8: cận cảnh đuôi của những con gà ở các hình 5 & 6. Lưu ý phần đuôi, có rất nhiều lông phụng tá với xu hướng hòa vào lông phụng chủ. So sánh với các hình 1 & 2.

Hình 9: một con gà rừng đỏ mới bẫy được với màu sắc chuẩn mực. Lưu ý, các lông phụng tá đều và thân hình thuôn như chiếc thuyền. Hình 10: một con gà rừng đỏ mới bẫy khác. Ở con này, mồng và tích lớn hơn so với hình 4.

Hình 11: một con gà rừng đỏ mới bẫy được với màu sắc chuẩn mực ở phần cổ. Một số gà rừng rặt có tròng mắt màu cam vàng.Hình 12: cẳng chân màu xanh ngọc và cựa rất sắc ở gà rừng trống rặt (mới bẫy được).

Hình 13: cựa của một con gà rừng đỏ trưởng thành rất sắc.Hình 14: một con gà rừng đỏ mới bẫy được với tròng mắt màu hanh vàng và bị nhiễm ve ở phần dưới mồng (mũi tên).

Hình 15: một con gà rừng rặt với dái tai màu đỏ. Nhiều con gà rừng hoang dã có dái tai màu đỏ. Con gà rừng trống này có tròng mắt màu đỏ, màu mắt phổ biến nhất.Hình 16: lưu ý tròng mắt hanh đỏ của con gà rừng này và dái tai hầu như trắng tinh.

Hình 17 & 18: gà rừng trống rặt mới bẫy được với dái tai trắng tinh. Lưu ý tròng mắt hanh đỏ và so sánh với hình 11.

Hình 19 & 20: một số gà rừng trống mới bẫy được cực kỳ nhát và sụp mồng, mất màu đỏ tươi ở mồng, mặt và tích vì căng thẳng. Lưu ý, dái tai ở trường hợp này không trắng hoàn toàn.

Hình 21: màu cẳng chân chuẩn mực ở gà rừng đỏ thuần chủng là xanh ngọc và theo kinh nghiệm của tôi, đặc điểm này là ổn định.Hình 22: lưu ý màu cẳng chân của gà lai dường như hơi nâu vàng ở hầu hết các vảy.

Hình 23: một con gà rừng trống rặt mới thay lông. Gà mái là gà lai.Hình 24: Một con gà rừng trống rặt được dân làng nuôi nhốt cả năm trời. Lưu ý con gà này đang thay lông (không có lông bờm).

Hình 25 & 26: những con gà rừng trống rặt này chỉ có một ít lông bờm khi mới bắt, điều chứng tỏ rằng chúng đang thay lông.

Hình 27: một con gà rừng trống rặt với thân hình thuôn, mồng và tích tương đối nhỏ.Hình 28: cận cảnh vùng đầu của một con gà rừng trống rặt với mồng và tích nhỏ.

Hình 29: đây là một con gà rừng trống bất thường với lông bờm màu trắng. Đây có lẽ là con cháu gà lai giữa gà rừng rặt với gà nhà.Hình 30: đây là biến thể vàng của gà rừng đỏ thường xuất hiện không xa khu làng mạc. Lưu ý số lượng lông bay màu vàng nhiều hơn so với gà rừng rặt. Đây nhất định là con cháu của gà lai giữa gà rừng trống rặt với gà nhà mái.

Hình 31: đây là biến thể gà rừng đỏ lông vàng khác được bắt ở Kajang, bang Selangor vào năm 1974. Địa bàn phân bố của gà này là rừng thứ sinh, được bao quanh bởi làng mạc. Đây nhất định là con cháu của gà lai giữa gà rừng rặt với gà nhà.Hình 32: đây là gà tre lai rừng thường được sử dụng làm mồi nhử gà rừng. Lưu ý đến khác biệt về màu sắc, thân hình nhỏ, mập và cẳng chân vàng.

Hình 33: bầy gà lai điển hình của tác giả.

3. Gà mái trưởng thànhGà rừng mái trưởng thành thường có màu nâu sẫm. Lông bờm nâu hanh vàng xen lẫn những vạch đen. Lông ức và vùng xung quanh hậu môn có màu nâu nhạt. Đầu nhỏ như đầu rắn, mồng, tích và dái tai tương đối nhỏ. Màu dái tai tương tự như gà trống. Thân thuôn như hình thuyền và chân tương đối dài, màu chân tương tự như gà trống.

Gà mái lai mà dân làng thường nuôi có thân hình không thuôn, mập mạp hơn, mồng và tích phát triển. Chân tương đối to và màu sắc đa dạng như xanh dương nhạt, hanh lục hay hanh vàng.

Hình 1, 2 & 3: gà rừng mái trưởng thành có mồng và tích rất nhỏ. Lông bờm hanh vàng xen những vạch nâu và màu sắc tổng quan là nâu sẫm. Lưu ý thân hình thuôn.

Hình 4 & 5: gà mái lai khác gà rặt ở thân hình mập mạp và mồng to hơn.

Hình 6 & 7: gà mái lai điển hình mà dân làng hay nuôi. Thân hình mập mạp hơn, đầu tròn, mồng và tích to hơn.

Hình 8: đây là con gà mái với lông bờm màu trắng. Con lai giữa một trong những con gà trống bờm trắng hoang dã với gà mái lai màu bình thường. Lưu ý, đầu rất giống với gà mái rừng rặt: đầu nhỏ, mồng và tích rất nhỏ. Hình 9: cận cảnh đầu và cổ của gà mái lai bờm trắng (nhiều máu rừng) với mồng nhỏ, không tích và lông cổ đen trắng.

4. Gà nonGà non có sọc to màu nâu sẫm ở chính giữa lưng, chạy từ đỉnh đầu cho đến đuôi. Hai sọc mảnh màu nâu sẫm khác ở hai bên sườn (chạy từ cổ đến đuôi). Màu giữa các sọc là màu kem. Những sọc đen điển hình khác chạy từ mắt đến sau đầu. Phần còn lại trên lưng màu nâu nhạt và bụng nâu nhạt hơn. Trừ lông cánh màu nâu nhạt, phần còn lại có màu vàng nhạt. Lông cánh mọc rất nhanh và gà có thể bay một đoạn ngắn khi đạt một tuần tuổi. Cẳng chân và các ngón ở vài ngày tuổi có màu xám nhạt. Gà rừng non thuần chủng và nhiều máu rừng rất nhạy cảm với những bệnh bắt nguồn từ sự căng thẳng.

Hình 1: ba con gà rừng đỏ thuần chủng mới nở. Lưu ý màu sắc điển hình của gà một ngày tuổi là các sọc nâu sẫm chạy từ đầu đến đuôi và sọc nâu sẫm mảnh chạy từ mắt đến cổ.Hình 2: cũng ba con gà đó (ở hai ngày tuổi) với những sọc nâu điển hình.

Hình 3: ba con gà rừng thuần chủng mới nở. Lưu ý màu sắc điển hình ở thân và màu xám nhạt ở chân.Hình 4: những con gà lai (nhiều máu rừng) rất khó phân biệt với gà rặt.

Hình 5: bốn con gà rừng thuần chủng mới nở và một quả trứng chưa nở.Hình 6: vẫn những con gà trên ở một tuần tuổi.

Hình 7: gà rừng đỏ thuần chủng một tuần tuổi. Lưu ý lông cánh đã phát triển đầy đủ cùng với những vạch trắng điển hình.Hình 8: ba con gà mới nở. Lưu ý cẳng chân màu xám nhạt.

Hình 9: lưu ý lông cánh gà rừng rặt phát triển đầy đủ sau một tuần tuổi và so sánh với gà ba ngày tuổi. Lưu ý những sọc nâu sẫm điển hình ở mắt, trên lưng và hai bên sườn.

Hình 10: hai con gà rừng rặt ở 11 ngày tuổi và gà nhà có cùng độ tuổi. Lưu ý đến sự khác biệt về kích thước và lông cánh cực kỳ phát triển ở hai con gà rừng đỏ non.Hình 11: hai con gà rừng đỏ rặt (trong hình 10) ở sáu tháng tuổi. Lưu ý đến sự khác biệt về kích thước so với gà nhà có cùng độ tuổi.

Hình 12 & 13: gà rừng trống ở sáu tháng tuổi. Lông, mồng, tích và dái tai vẫn chưa phát triển hết.

(Sưu tầm)               

Giống Heo Rừng Lai Dòng F4 Lai Tạo Ra Sao?

Hiện nay, có rất nhiều người muốn phát triển mạnh ngành chăn nuôi heo rừng lai, nhưng thực tế cho thấy đang có một trở ngại lớn là thiếu giống heo rừng lai trầm trọng.

Ai cũng biết giống heo rừng lai mà chúng ta hiện nuôi là “sản phẩm” tạo thành từ sự phối giống của heo đực rừng thuần chủng với heo nái cỏ nội địa mà đồng bào dân tộc ít người vùng cao nguyên nuôi từ lâu đời nay.

Những con heo lai này mới thuộc dòng F1 mang trong mình nó phân nửa máu heo rừng và phân nửa máu heo cỏ nội địa.

Heo nái thì hiện có nhiều, nhưng heo nọc thì lại hiếm. Chúng hiếm do một phần từ trước đến nay bị sàn bắt quá nhiều, một phần do sự ngăn cản của Công ước CITES (Convention International Trade Endanger Species) có văn phòng hiện đặt tại Geneve (Thụy Sĩ), mà nước ta đã gia nhập khoảng mươi năm trở lại đây.

Công ước Cites ra đời nhằm mục đích bảo vệ thú hoang dã nói chung khỏi bị săn bắt vì mục đích thương mại.

Vậy để phát triển ngành chăn nuôi này, việc cần làm trước tiên của chúng ta là bắt tay vào việc tạo con giống.

Chỉ khi nào chủ động được việc tạo giống thì lúc dó việc phát triển ngành nghề chăn nuôi này mới gập nhiều thuận lợi và có cơ hội để phát đạt.

Nuôi heo rừng: Cẩm nang làm giàu MIỄN PHÍ

Thuận lợi vì không còn khan hiếm con giống để nuôi, mà còn làm hạ giá con giống xuống mức thấp, không còn cao đến mức trên dưới 200.000đ/kg (heo hơi) như hiện nay.

Do heo là loài mắn đẻ, mới bảy tám tháng tuổi heo cái đã bắt đầu động dục, mỗi năm đẻ được hai lứa, và mỗi lứa cho ra đời từ vài ba con đến gần chục heo con.

Vì vậy, chúng ta có quyền lạc quan tin rằng chỉ cần bỏ ra khoảng thời gian vài ba năm để làm việc lai tạo ta sẽ có đủ giống heo rừng lai để nuôi.

Việc lai tạo từ các giống heo ngoại nhập lớn con với giống heo nội nhỏ con, để tạo ra giống heo lai có thân xác lớn, có phẩm chất thịt siêu nạc không thua gì heo ngoại nhập là việc trước đây hàng trăm năm ông bà ta đã thực hiện thành công.

Nhớ lại trước đây vài ba trăm năm ta chỉ có giống heo cỏ nhỏ con, nuôi giáp năm cũng chỉ cân nặng được hơn nửa tạ, sau cho lai với giống heo Hải Nam mới ra giống heo Hòn Chong (nay còn nuôi ở vùng Cà Mau và các vùng phụ cận) nuôi một năm có thể nặng đến gần tạ.

Về sau, ông bà mình còn lấy giông Craonnais của Pháp cho phối với giống heo Bồ của Trung Hoa ra loại heo lai đặt tên là Bồ Xụ lớn con và nuôi rất mau lớn…

Rồi, trước đây hơn nửa thế kỷ, khi nhập về các giống heo bồ tượng như Yorkshire, Berkshire… người mình lại cho các giống heo này lai với heo Bồ Xụ để cho ra đời một giống heo mới là heo Thuộc Nhiêu, hiện nay nhiều vùng vẫn còn nuôi giống này do hợp phong thổ nên mau lớn và ít bệnh tật.. heo rừng thuần chủng

Phương pháp lai tạo heo rừng lai

Trở lại việc tạo giống heo rừng lai (để làm giống) chắc hiện nay nhiều người cũng nghĩ đến và cũng đã bắt đầu thực hiện, vẫn là heo đực rừng cho phối với heo cỏ nái nội địa, nhưng phải lai tạo liên tiếp bốn đời, từ đó mới có dòng heo rừng lai (F4) có khả năng di truyền đặc tính của heo rừng, trong đó có cả phẩm chất thịt tốt.

Phương pháp lai tạo:

Bước 1: Heo cha là đực rừng thuần chủng phối với heo mẹ là nái cỏ nội địa (còn gọi là heo vùng thượng du) sẽ đẻ ra đàn heo con thuộc dòng F1 (mang 1/2 đặc tính của heo cha). Nên lựa ra những con heo cái dòng F1 này mang những ưu điểm nổi trội nhất trong đàn như khỏe mạnh, dài đòn, mông nở, vú to và đều, chân cứng cáp… để nuôi làm giống. Những heo cái không đạt chuẩn còn lại và toàn bộ heo đực nên dạt ra nuôi thịt.

Bước 2: Heo cha là heo nọc rừng thuần chủng (con đực mới khác để tránh bị đồng huyết) cho phối với heo cái dòng F1 (vừa tạo ra đợt trước) sẽ đẻ ra đàn heo con thuộc dòng F2 (mang 3/4 đặc tính của heo cha). Lần này lại lựa ra những con heo cái dòng F2 đạt chuần để nuôi tiếp làm nái giống sau này. Còn những heo cái trong đàn không đạt chuẩn, và toàn bộ heo đực cũng dạt ra nuôi thịt.

Bước 3: Heo cha là heo nọc rừng thuần chùng (nên dùng con đực mới để tránh bầy con bị đồng huyết) cho phối với heo cái dòng F2 sẽ đẻ ra đàn heo con thuộc dòng F3 (mang 7/8 máu của heo rừng cha). Cũng như hai lần trước, lần này cũng lựa ra những con heo cái dòng F3 đạt chuẩn để nuôi lớn làm giống. Những con heo cái còn lại không đạt chuẩn đế giống cũng dạt ra nuôi thịt chung với tất cả heo đực trong đàn.

Bước 4: Heo cha vẫn là nọc rừng thuần chủng (chọn đực mới để tránh bị đồng huyết) cho phối với heo cái dòng F3 (mang 15/16 đặc tính heo rừng cha). Như vậy dàn heo con lai rừng này chỉ mang một phần rất ít, không đáng kể đặc tính của dòng heo cỏ nội địa của con nái mà thôi.

Sau bốn bước lai tạo liên tục như vậy, tất cả đàn heo con thuộc dòng F4 này được coi là tương đương với heo rừng thuần chủng, kể cả heo cái lẫn heo đực đều được dùng làm heo giống để sản xuất heo rừng lai sau này.

Giống heo lai rừng dòng F4 chính là giống “heo rừng nhân tạo” cả đực và cái đều được nuôi làm giống như heo rừng thuần chủng vậy.

Giống heo rừng lai dòng F4 này có hình dáng giống như heo rừng thuần chủng: cũng dài đòn, bụng thon, lưng thẳng, đầu nhỏ, mõm dài, cổ lãi, tai nhỏ mà vểnh lên, cặp răng nanh phắt triển nhanh, chân dài, lông màu đen hoặc xám đen, lông bờm dài và dày, có ba chấu, ánh mắt hoang dại…

Giống heo rừng lai dòng F4 có sức đề kháng mạnh, và chịu đựng được sự kham khổ trong môi trường sống và cả cách ăn uống…

Trong việc lai tạo để có giống heo lai dòng F4 này, điều tối kỵ là tránh bị đồng huyết. Vì vậy, những heo nái thuộc các dòng Fl, F2, F3 và cả F4 dều phối hợp vái heo đực rừng khác nhau.

Thực tế cho thấy sự đồng huyết có thể làm tăng thêm những đặc tính tốt của dòng heo, nhưng cạnh đó có thể di hại cho đàn con những đặc tính xấu cùa heo cha mẹ.

Vì nếu một trong hai con heo cha và mẹ có mang sẵn những gien xấu như thấp lùn, cụt đòn, sinh sản kém, hoặc đang mang trong thân chúng một thứ tật bệnh nào đó… thì đàn con của chúng sẽ phải mang những gien di truyền xấu này từ heo cha hoặc heo mẹ.

Thí dụ:

Heo cha, heo mẹ cùng huyết thống với nhau, nhưng cả hai đều khỏe mạnh thì đàn con chúng sẽ khỏe mạnh cả.

Nếu heo cha khỏe mà heo mẹ lại vướng bệnh (cả hai cùng chung huyết thống) cho phối nhau, đàn con của chúng thế nào cũng có con khỏe, con bệnh.

Heo cha heo mẹ cùng chung huyết thống và đều có bệnh, phối nhau sẽ ra đàn con thừa hưỏng các gien xấu cùa cha mẹ cả.

Nguyễn Việt Thy

Câu Hỏi Thường Gặp

Phương Pháp Lai Tạo Gà Giống

Trong chọn giống, điều quan trọng là phải có gà mái tốt, để làm mái gốc, mái nền. Mái tốt là mái có thể đẻ ra lượng trứng nhiều, trứng đạt chất lượng, ngoài ra con con có khả năng tăng trưởng cao, chống chọi bệnh tật tốt. Máy ấp trứng Ánh Dương đã có bài viết cách lựa chọn con giống đạt tiêu chuẩn, bà con có thể tham khảo để biết cách chọn gà trống, gà mái phù hợp.

Cách đơn giản nhất là thu thập và ấp nở trứng từ bầy gà của mình nhưng thách thức quan trọng nhất chính là ở đời F1 xảy ra tình trạng xuống cấp di truyền cho cận huyết con giống.

Để tránh tình trạng cận huyết, chúng tôi gợi ý cho bà con một số phương pháp như sau:

1. Phương pháp lai pha

Là cách lai đơn giản nhất, bà con đem những trống mới từ nơi khác về hằng năm và đây cũng là phương pháo được áp dụng rộng rãi nhất trong chăn nuôi. Qua mỗi mùa sinh đẻ, những con trống thuộc giống khác ở nhiều nơi khác được đưa mới vào bầy để tiến hành thụ tinh mới, ưu điểm của phương pháp sẽ tránh được hoàn toàn tình trạng cận huyết, không xảy ra tình trạng giảm năng suất. Nhưng nhược điểm là khó kiểm các tính trạng của con giống bởi quá trình lai tạo có thể tạo ra những tính trạng lặn khiến giống gà mới trở nên yếu hơn.

Cũng là một phương pháp mà bạn đựa trống mới về mỗi mùa. Chỉ khác là nguồn trống mới chỉ ở một nơi, giúp kiểm soát các tính trạng đã có ở gà tạo ra con giống mới phát triển hơn, cũng như tránh được tình trạng cận huyết.

3. Phương pháp lai bầy

Là một phương pháp lai tạo theo bầy như một đơn vị tổng thể thường được áp dụng trong các trang trại quy mô công nghiệp. Ví dụ sử dụng khoảng 20 con giống và 200 con mái, bầy sẽ tự lai tạo quyết định tạo ra giống mới và tiến hành chọn lọc con giống tốt nhất trong thế hệ tiếp theo, sau đó lại nhập số lượng con giống mới và tiếp tục lai tạo, cuối cùng tổ hợp hai con giống mới để tạo ra giống tốt hơn.

4. Phương pháp lai cuốn

Theo phương pháp này, bà con cần phân đàn gà ra thành hai nhóm. Nhóm mái tơ được ghép với trống trưởng thành và nhóm trống tơ được ghép với mái trưởng thành. Vào cuối mùa lai tạo, cả hai nhóm được thanh lọc được gom lại cho mùa sau, và gà con được nuôi lớn thành mái tơ và trống tơ cho mùa lai tạo kế tiếp. Đây là một hệ thống đơn giản và có lợi thế trong việc chỉ duy trì hai nhóm gà.

5. Phương pháp lai xoay

Là phương pháp mà ba bầy, cụ thể gà mái được chia thành 3 bầy mà mỗi bầy được đặt tên: chẳng hạn như “1”, “2” và “3. Trong mùa đầu tiên, trống mới 1 sẽ lai tạo với duy nhất một bầy 1, tương tự cho trống mới 2 và 3. Ở mùa thứ hai, con trống tơ 1 sẽ lai tạo với bầy 2, tương tự lai tạo chéo cho mùa 3… Cứ như vậy, sự tổ hợp chéo sẽ tạo ra 03 giống mới sau 3 mùa. Điểm thuận lợi của phương pháp lai xoay đó là không xảy ra tình trạng cận huyết cũng như không cần bổ sung giống mới trong quá trình lai tạo.

Bất kể bà con áp dụng phương pháp nào cho bầy gà của mình, thành công lâu dài của việc lai tạo phụ thuộc vào việc sở hữu bầy gà gồm nhiều cá thể khác biệt về nguồn gốc cũng như sự kiên trì trong lai tạo. Điều này có nghĩa cần lưu giữ gà ở nhiều thế hệ khác nhau và sử dụng càng nhiều trống khác nhau càng tốt trong điều kiện cho phép. Chúc bà con thành công.

Kỹ Thuật Nuôi Heo Rừng Lai

Ngày nay nhu cầu tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi của nhân dân ngày càng cao, đặc biệt là các loại thịt đặc sản qúy hiếm. Một trong những động vật hoang dă được nhiều người Việt Nam ưa chuộng đó là lợn rừng. Thuần hóa lợn rừng, lai tạo với lợn nhà đang được nhiều trang trại và các cơ sở chăn nuôi của nước ta nghiên cứu và ứng dụng. Giống và đặc điểm giống:

Tên gọi: Heo rừng lai là con lai giữa heo rừng đực với heo nái là heo địa phương thả rông của người dân tộc thường nuôi (giống heo gần như hoang dă) tạo ra con lai với ưu thế lai cao của cả bố và mẹ: Có sức đề kháng mạnh, khả năng chịu đựng kham khổ với môi trường sống tự nhiên cao, ít dịch bệnh, tỷ lệ hao hụt rất thấp…

Vóc dáng: Heo rừng lai cân đối, nhanh nhẹn, di chuyển linh hoạt, hơi gầy, dài đ̣n, lưng thẳng, bụng thon, chân dài và nhỏ, cổ dài, đầu nhỏ, mơm dài và nhọn, tai nhỏ vểnh và thính, răng nanh phát triển mạnh, da lông màu hung đen hay xám đen, một gốc chân lông có 3 ngọn, lông dọc theo sống lưng và cổ dày, dài và cứng hơn, ánh mắt lấm lét trông hoang dă… Trọng lượng lúc trưởng thành (con đực thường lớn hơn con cái), con đực nặng 50 – 70 kg, con cái nặng 30-40 kg…

Tập tính sinh hoạt và môi trường sống: Heo rừng lai hơi nhút nhát, thính giác, khứu giác tốt, sinh hoạt bầy đàn và chọn lọc tự nhiên thể hiện tính hoang dă… Thích sống theo bầy đàn nhỏ vài ba con, heo đực thường thích sống một ḿnh (trừ khi heo cái động dục).

Môi trường sống thích hợp là vườn cây, trảng cỏ gần ao hồ… Thích hoạt động về ban đêm, ban ngày t́m nơi yên tĩnh, kín đáo để ngủ, nghỉ…

Giá trị và thị trường: Thịt heo rừng lai màu hơi nhạt, không đỏ như thịt heo nhà, nhưng nhiều nạc, ít mỡ, da mỏng và ḍn, thịt ḍn thơm ngon rất đặc trưng, hàm lượng Cholerteron thấp, người tiêu dùng rất ưa chuộng nên bán được giá cao…

Thấy được giá trị của heo rừng, những năm gần đây, nhiều hộ gia đ́nh ở các tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước… đă tổ chức thuần hoá heo rừng, tổ chức lai tạo, chăm sóc nuôi dưỡng heo rừng lai, tổ chức liên doanh, liên kết tiêu thụ sản phẩm với các nhà hàng, khách sạn ở các thành phố lớn mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Ghép đôi giao phối:

Tốt nhất, nên cho heo rừng lai cái phối giống với heo rừng đực hoặc cho heo rừng lai cái phối giống với heo rừng lai đực để tạo ra con lai thương phẩm nuôi thịt…

Phối giống và thời điểm phối giống thích hợp:

Bỏ qua 1-2 lần động dục đầu tiên, v́ cơ thể chưa hoàn thiện, trứng rụng ít, phối giống, đậu thai hiệu quả thấp.

Chu kỳ lên động dục của heo là 21 ngày, thời gian động dục kéo dài 3-5 ngày. Thời điểm phối giống thích hợp vào cuối ngày thứ 2 hoặc đầu ngày thứ 3 (tuỳ theo giống, tuổi), cho nên cần theo dơi biểu hiện của heo lên giống. Khi âm hộ chuyển từ màu hồng tươi sang màu hồng tái, có nếp nhăn và dịch nhờn tiết ra nhiều, tai chĩa về phía trước, có phản xạ đứng im (mê ́) là thời điểm phối giống thích hợp nhất.

Khi heo cái có dấu hiệu động dục ta cho heo đực vào vườn nuôi heo cái hay cho heo cái vào vườn nuôi heo đực. Heo đực sẽ phối giống liên tục, bất kể ngày đêm đến khi nào heo cái không chịu nữa mới thôi. Có thể cho phối kép 2 lần vào lúc sáng sớm và chiều mát (hoặc ngược lại). Sau 21 ngày, heo cái không động dục trở lại, có thể heo cái đă có bầu.

Chuồng trại:

Chuồng trại rất đơn giản, tuy nhiên, phải nắm vững một số đặc điểm và tập tính của heo rừng lai để bố trí chuồng trại.

Nên chọn chỗ đất cao và thoát nước để bố trí nuôi. Chỗ nuôi cũng nên có nguồn nước sạch. Nó không những cung cấp đủ nước cho heo uống mà quan trọng hơn là nó sẽ duy trì được hệ thực vật phong phú tại nơi nuôi chúng và giữ được độ ẩm thích hợp.

Chuồng trại càng cách xa khu dân cư và đường sá càng tốt. Bản năng hoang dă đă đưa chúng vào t́nh trạng hết sức cảnh giác và luôn hoảng hốt bỏ chạy khi nghe có tiếng động.

Ta có thể nuôi heo rừng lai theo kiểu nhốt trong chuồng hoặc nuôi theo kiểu thả rông trong những khu vực có cây xanh, có rào che chắn xung quanh. Điều quan trọng là hệ thống hàng rào phải hết sức chắc chắn. Ta có thể vây lưới B40 thành các vườn nuôi tự nhiên, có móng kiên cố (v́ heo rừng lai hay đào hang), mỗi vườn nuôi rộng 50-100m2 (tuỳ theo khả năng đất đai) trong đó có chuồng nuôi rộng 20 – 30m2 nuôi khoảng 4-5 heo cái trưởng thành, chúng sẽ sống và sinh sản trực tiếp trong khu vực này. Heo đực giống nuôi riêng, mỗi con một vườn, mỗi vườn nuôi rộng 40 – 50m2 trong đó có chuồng nuôi rộng 5-10m2 . Chuồng nuôi, có mái che mưa, che nắng, cao trên 2,5m, nền đất tự nhiên, có độ dốc 2-3%… đảm bảo thông thoáng, sạch sẽ, mát mẻ về mùa hè, ấm áp về mùa đông, tránh mưa tạt, gió lùa…

Với quy mô ban đầu nuôi 10 con (1 đực, 9 cái) cần có 3 vườn nuôi. Hai vườn nuôi heo cái sinh sản, mỗi vườn rộng 50-100m2 trong đó có 2 chuồng nuôi, mỗi chuồng rộng 20-30m2. Một vườn nuôi heo đực giống rộng 40-50m2 trong đó có chuồng nuôi rộng 5-10m2…

Thức ăn và khẩu phần thức ăn:

Bao gồm, thức ăn xanh tươi (cỏ, cây các loại), thức ăn tinh (hạt ngũ cốc, củ quả, mầm cây, rễ cây các loại), muối khoáng như tro bếp, đất sét, hỗn hợp đá liếm… Thực tế cho thấy, heo rừng thường tìm đến nương rẫy mới đốt kiếm tro, đất sét để ăn.

Khẩu phần thức ăn cho heo rừng lai thông thường: 50% là rau, củ, quả các loại (có thể sản xuất tại trang trại), 50% là cám, gạo, ngũ cốc các loại, hèm bia, bã đậu… Mỗi ngày cho ăn 2 lần (sáng, chiều), một con heo lai trưởng thành tiêu thụ hết khoảng 2,0 -3,0 kg thức ăn các loại.

Thức ăn cho heo rừng lai, do con người cung cấp có thể thiếu dinh dưỡng, nhất là đạm, khoáng và sinh tố… cho nên ngoài việc bổ sung thức ăn tinh giàu đạm, sinh tố, cần thiết phải bổ sung thêm đá liếm cho heo. Hỗn hợp đá liếm bổ sung khoáng có thể mua hay tự trộn theo tỷ lệ (muối ăn 100g; sắt sunphát 100g; đồng sunphát 50g; diêm sinh 100g; vôi tôi 1.000g… đất sét vừa đủ 3kg) cho heo liếm tự do cũng chỉ hết khoảng 20-25 gam/con/ngày.

Thức ăn của heo rừng lai chủ yếu là thực vật. Không nên lạm dụng thức ăn giàu dinh dưỡng để nuôi heo rừng lai v́ nó sẽ làm cho phẩm chất thịt của heo rừng lai bị biến đổi và nhiều khi làm cho heo bị bệnh tiêu chảy…

Heo ăn thức ăn xanh tươi ít uống nước, tuy nhiên cũng cần có đủ nước sạch và mát cho heo uống tự do. Nước không có ư nghĩa về mặt dinh dưỡng, nhưng có ư nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của heo, nhất là khi thời tiết nắng nóng…

Hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, dọn bỏ thức ăn thừa, rửa sạch máng ăn, máng uống…

Chăm sóc nuôi dưỡng:

Heo rừng lai thích hợp với phương thức nuôi chăn thả trong vườn cây có rào dậu hay chăn thả tự nhiên, ít có sự tác động của con người. Heo rừng lai rất dễ nuôi, hiệu quả kinh tế cao.

Khẩu phần thức ăn chủ yếu là thức ăn tươi sống, rau, củ quả, mầm cây, rễ cây, thức ăn tinh gồm hạt ngũ cốc các loại, thức ăn bổ sung muối khoáng như tro bếp, đất sét… Ngoài ra, cũng có thể bổ sung vào chuồng nuôi hoặc vườn nuôi chăn thả một số thức ăn tinh hỗn hợp, xương, bột xương, bột ṣ, hỗn hợp đá liếm… cho heo ăn tự do có vậy thay răng nanh mới bị cùn bớt.

Heo đực giống: Quản lư và chăm sóc tốt, 1 heo đực có thể phối 5-10 heo cái. Heo đực giống phải nuôi riêng và có chế độ bồi dưỡng, nhất là thức ăn tinh giàu đạm. Ngày phối giống bổ sung thêm thức ăn tinh, 1-2 quả trứng, muối khoáng, sinh tố cho ăn tự do…

Heo cái giống: Heo rừng lai mắn đẻ, đẻ nhiều con, mỗi năm có thể đẻ 2 lứa, mỗi lứa 6-7 con, cá biệt có lứa đẻ 9-10 con và khéo nuôi con (nuôi con rất giỏi). Trong tự nhiên, khi đẻ heo mẹ tự chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và tự tách bầy khi con lớn…

Đối với heo nái mang thai, 2 tháng đầu mang thai cho ăn khẩu phần thức ăn bình thường rau, củ, quả, hạt ngũ cốc các loại… có thể bổ sung thêm thức ăn tinh hỗn hợp, 15g muối, 20g khoáng mỗi ngày. Sau 2 tháng đến khi đẻ cần thiết phải bổ sung thêm thức ăn tinh giàu dinh dưỡng, nhất là đạm, khoáng, sinh tố… Ngày heo đẻ có thể cho heo ăn cháo loăng, ít muối, ít rau xanh để đề pḥòng sốt sữa… Heo mang thai nên nuôi riêng để tiện chăm sóc nuôi dưỡng…

Đối với heo nái nuôi con, khẩu phần thức ăn phải đảm bảo số lượng, chất lượng và chủng loại. Khi heo con được 1,5-2 tháng tuổi, đã ăn được thức ăn do con người cung cấp thì cho mẹ ăn khẩu phần ăn bình thường. Không nên phối giống cho heo nái động dục trong thời kỳ nuôi con, vì khó thụ thai hoặc thụ thai nhưng số lượng và chất lượng heo con sinh ra không đạt yêu cầu.

Heo con:

Heo sơ sinh màu lông đen, có những sọc nâu vàng chạy dọc thân, không cần đỡ đẻ, cắt rốn, chỉ khoảng 30 phút đến 1 tiếng đồng hồ heo con đã có thể đứng dậy bú mẹ. 15-20 ngày chạy lon ton và bắt đầu tập ăn cỏ, cây. Heo con được 1,5-2 tháng tuổi đã cứng cáp, ăn được thức ăn do con người cung cấp thì cai sữa, tách bầy làm giống…

Heo sơ sinh có thể đạt 300-500 gr/con, 1 tháng tuổi 3-5 kg, 2 tháng tuổi 8-10 kg, 6 tháng tuổi 20-25 kg, 12 tháng tuổi có thể đạt 60-70% trọng lượng trưởng thành. Với cách nuôi và chế độ dinh dưỡng thông thường, sau 6 tháng nuôi, heo con có thể đạt trọng lượng 25 kg và bán thịt.

Hàng ngày, nên cho heo con vận động và tiếp xúc gần gũi với con người.

Công tác thú y:

Heo rừng lai là vật nuôi mới được lai tạo, sức đề kháng cao, ít dịch bệnh. Tuy nhiên, heo rừng lai cũng thường bị một số bệnh như: Dịch tả, tiêu chảy, tụ huyết trùng, lở mồm long móng, bệnh sán lá, bệnh ghẻ lở và một số bệnh khác…

Khi heo rừng lai mắc một số bệnh về đường tiêu hoá có thể dùng các loại thuốc trị đau bụng, sình bụng, đầy hơi, khó tiêu… Cho uống hay chích, hoặc có thể dùng 5-10 kg rau dừa dại cho heo ăn hoặc bổ sung thức ăn, nước uống đắng, chát như ổi xanh, cà rốt, rễ cau, rễ dừa… cũng có thể khỏi.

Chăm sóc nuôi dưỡng tốt, ăn uống sạch sẽ, thức ăn đảm bảo vệ sinh và giá trị dinh dưỡng, chuồng trại luôn sạch sẽ… Cần áp dụng tốt các biện pháp an toàn sinh học như: Vệ sinh, sát trùng chuồng trại, cách ly khu vực chăn nuôi với các khu vực xung quanh… định ì tiêm pḥòng các bệnh truyền nhiễm như phó thương hàn, dịch tả, lở mồm long móng (FMD), E.coli, dại… theo đặc điểm dịch tễ học của vùng và qui định của cơ quan thú y.

Khi thời tiết thay đổi hoặc trạng thái sức khoẻ đàn heo có biểu hiện bệnh, cần thiết phải bổ sung kháng sinh vào thức ăn hoặc nước uống cho heo theo quy tình ” dùng thuốc 3 ngày, nghỉ 7 hoặc 10 ngày, rồi dùng tiếp 3 ngày”, cứ thế cho đến khi đàn heo trở lại bình thường, với liều pḥòng chỉ bằng 1/2-1/3 liều điều trị…

Ngô Ngọc Thuần Vietnamgateway

Bạn đang đọc nội dung bài viết Gà Rừng Nhà Lai Tạo trên website Ngayhoimuanhagiagoc.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!