Đề Xuất 3/2023 # Kỹ Thuật Nuôi Gà Mía Lai # Top 10 Like | Ngayhoimuanhagiagoc.com

Đề Xuất 3/2023 # Kỹ Thuật Nuôi Gà Mía Lai # Top 10 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Kỹ Thuật Nuôi Gà Mía Lai mới nhất trên website Ngayhoimuanhagiagoc.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Gà Mía lai là giống gà được lại giữa gà ta với gà lương phượng cho thịt thơm đặc trưng, da giòn, mỡ dưới da ít, sức đề kháng cao rất thích hợp với điều kiện chăn thả của các hộ gia đình. Để nuôi gà Mía lai đạt hiệu quả cao, chúng tôi giới thiệu điểm chính trong kỹ thuật nuôi gà Mía lai như sau:

Gà Mía có khả năng chống chịu rét rất tốt, thời gian sinh trưởng ngắn chỉ sau 4 tháng là có thể xuất chuồng. Trọng lượng trung bình đạt từ 1,6 – 2,2kg phù hợp với nhu cầu thức ăn cho một gia đình nên gà bán rất được giá.

Tốc độ tăng trưởng của gà Mía lai

Giai đoạn gà Mía từ 40 – 42 ngày tuổi cho trọng lượng đạt 0,6 – 0,8kg/con, 72 ngày tuổi đạt 1,3 -1,5 kg/con, 90 ngày tuổi đạt trọng lượng 2,2 kg/con.

Gà Mía chăn nuôi theo mô hình thả vườn sẽ mang lại nhiều ưu điểm: Chi phí đầu tư xây dựng chuồng trại thấp, tiết kiệm được nhiều chi phí cho nguyên vật liệu chăn nuôi (điện, nước, quạt thông gió, sử dụng ít chất độn chuồng.

Gà Mía là giống gà thích hợp thả vườn nên có cách nuôi khác với gà công nghiệp. Để gà mía cho hiệu quả năng suất cao nhất bà con không những cho gà ăn cám mà còn bổ sung thêm nhiều thức ăn dân dã như ăn thóc, cám gạo, ngô nghiền, rau xanh, bổ sung các loại khoáng, vitamin, nhất là gà ở giai đoạn đẻ trứng và vỗ béo để nâng cao sức đề kháng cho gà.

Chuồng trại: Chọn những nơi cao ráo, thoáng mát để đặt chuồng gà mía lai. Nên đặt chuồng theo hướng Đông Nam hoặc hướng Đông để được hứng nắng và ánh sáng mặt trời. Trong trường hợp nuôi nhốt hoàn toàn, chú ý mật độ nuôi sao cho thích hợp ( gà Mía lai thị trên sàn: 8con/1m2; gà Mía lai thịt trên nền 10con/1m2). Trong trường hợp nuôi gà thả vườn thì chuồng là nơi ngủ đêm và tránh ánh nắng, mật độ vườn thả gà nên ít nhất là 1con/m2. Mặt trước của cửa chuồng nên hướng về phía đông nam. Sàn chuồng làm bằng tre thưa hoặc lưới đặt cách mặt đất 0,5 m giúp chuồng khô ráo, thông thoáng và dễ vệ sinh.

Đặt rào chắn xung quanh vườn, và nên đặt bằng lưới B40, tre gỗ hoặc lưới lilon… tùy thuộc điều kiện nuôi của từng hộ gia đình. Ban ngày khô ráo nên thả gà ra sân vườn chơi, buổi tối ta cho gà về chuồng.

Lồng úm gà con: Kích thước 2 x 1m cao chân tầm 0,5 m đủ nuôi cho khoảng 100 con gà Mía lai giống. Sưởi ấm cho gà Mía lai bằng đèn (hai bóng khoảng 75W và dùng cho 100 con gà).

Máng ăn: Khi gà Mía lai còn nhỏ ( khoảng 1-3 ngày tuổi) ta rải cám tấm trên tấm giấy lót trong lồng úm và cho gà ăn. Khi gà Mía lai đạt 4-14 ngày tuổi cho gà Mía lai ăn bằng máng ăn của gà con. Khi gà Mía lai đạt trên 15 ngày cho gà ăn kiểu máng treo.

Máng uống: Treo hoặc đặt xen kẽ các máng ăn và máng uống ở trong vườn. Nên thay nước sạch uống cho gà 2 – 3 lần trong 1 ngày.

Bể tắm cát và máng cát sỏi cho gà Mía lai: Gà Mía lai rất thích tắm cát. Đối gà Mía lai nuôi chăn thả ta nên phải xây bể chứa cát, tro bếp và tạo điểm sinh hoạt cho gà Mía lai tắm. Kích thước bể tắm nên xây rộng 1m, dài 2m, cao 0,3m đủ diện tích chứa cho khoảng 40 con. Đặt vài máng cát, đá hoặc sỏi nhỏ xung quanh nơi chăn thả gà để gà ăn giúp cho gà Mía lai tiêu hóa thức ăn được tốt hơn.

Dàn đậu cho gà: Gà Mía lai có tập tính thích ngủ ở trên cao vào ban đêm để tránh các kẻ thù và giữ ẩm cho đôi chân của chúng, hơn nữa là tránh nhiễm bệnh. Do đó ta nên tạo một số dàn đậu cho gà Mía lai ngủ trong chuồng. Dàn đậu nên làm bằng tre, gỗ nên nhớ không nên làm bằng các vật liệu có tính chất chơn tròn. Dàn cách nền chuồng tầm khoảng 0,5 m và cách nhau 0,3 đến 0,4 m để giúp gà Mía lai khỏi đụng vào nhau, ỉa phân lên nhau và mổ nhau. Nên để ổ gà đẻ cho gà Mía lai ở nơi tối. Một ổ đẻ cho phép chứa khoảng 5 đến 10 con gà mái.

Vườn chăn thả: 1con gà/1m2.

Kỹ Thuật Chăn Nuôi Gà Mía Thả Vườn

Chuồng trại:

Chọn khu đất cao ráo, thoáng mát để cất chuồng gà. Nên cất chuồng theo hướng Đông hoặc Đông Nam để hứng được nắng sáng và tránh được nắng chiều.

Nếu nuôi nhốt hoàn toàn, chú ý mật độ nuôi thích hợp (8 con/m2 nếu nuôi gà thịt trên sàn, 10 con/m2 nếu nuôi gà thịt trên nền).

Nếu nuôi gà thả vườn,chuồng là nơi để tránh mưa nắng và ngủ đêm, mật độ vườn thả gà đủ là ít nhất 1 con/m2. Mặt trước cửa chuồng hướng về phía đông nam. Sàn chuồng làm bằng lưới hoặc tre thưa cách mặt đất 0,5 m để thông thoáng, khô ráo, dễ dọn vệ sinh.

Rào chắn xung quanh vườn bằng lưới B40, lưới nilon, tre gỗ… tùy điều kiện nuôi của từng hộ. Ban ngày khô ráo thả gà ra sân, vườn chơi, buổi tối cho gà về chuồng.

Lồng úm gà con:

Sưởi ấm cho gà bằng đèn (hai bóng 75W dùng cho 100 con gà).

Máng ăn:

Khi gà còn nhỏ (1-3 ngày tuổi) rải cám tấm trên giấy lót trong lồng úm cho gà ăn.

Khi gà 4-14 ngày tuổi cho gà ăn bằng máng ăn cho gà con.

Trên 15 ngày cho gà ăn máng treo.

Máng uống:

Đặt hoặc treo xen kẻ các máng uống với máng ăn trong vườn.

Thay nước sạch cho gà 2-3 lần/ngày.

Bể tắm cát, máng cát sỏi cho gà:

Gà rất thích tắm cát.

Đối gà nuôi chăn thả phải xây bể chứa cát, tro bếp và điểm sinh hoạt cho gà tắm. Kích thước bể dài 2 m, rộng 1 m, cao 0,3 m cho 40 gà.

Đặt một số máng cát, sỏi hoặc đá nhỏ xung quanh nơi chăn thả để gà ăn, giúp gà tiêu hóa thức ăn tốt hơn.

Dàn đậu cho gà:

Gà có tập tính thích ngủ trên cao vào ban đêm để tránh kẻ thù và giữ ẩm cho đôi chân, tránh nhiễm bệnh. Do đó nên tạo một số dàn đậu cho gà ngủ trong chuồng.

Dàn đậu làm bằng tre, gỗ (không nên làm bằng cây tròn vì trơn gà khó đậu). Dàn cách nền chuồng khoảng 0,5 m, cách nhau 0,3-0,4 m để gà khỏi đụng vào nhau, mổ nhau và ỉa phân lên nhau.

Làm ổ đẻ cho gà để nơi tối. Một ổ đẻ cho 5-10 con gà mái.

Vườn chăn thả: 1m2/1 con gà.

Nuôi thịt: Chọn giống,Tàu vàng, gà Đông Tảo, gà Nòi, gà Tam Hoàng, gà Lương Phượng…..

Nuôi gà lấy trứng thương phẩm: Chọn những giống gà đẻ nhiều như gà mía, Tàu Vàng, gà Tam Hoàng, gà BT1, gà Ri….

Chọn giống gà con:

Chọn gà con càng đồng đều về trọng lượng càng tốt.

Chọn những con nhanh, mắt sáng, lông bông, bụng gọn, chân mập.

Tránh chọn những con gà khô chân, vẹo mỏ, khoèo chân, hở rốn, xệ bụng, lỗ huyệt bết lông, cánh xệ, có vòng thâm đen quanh rốn.

Chọn gà đẻ tốt:

Chọn con có trọng lượng không quá thấp, không quá mập, lúc 20 tuần tuổi đạt 1,6 – 1,7 kg thì rất tốt.

Đầu nhỏ, mỏ ngắn đều, mồng tích to, đỏ tươi.

Mắt sáng, lông mượt xếp sát vào thân, bụng phát triển mềm mại.

Hậu môn rộng màu hồng tươi và ẩm ướt.

Khoảng cách giữa xương chậu và xương ức rộng độ 3-4 ngón tay, giữa hai xương chậu rộng gần 2-3 ngón tay xếp lại.

Nên vận chuyển gà con vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát, tránh những ngày mưa bão hay áp thấp nhiệt đới. Đưa gà vào chuồng úm, cho gà uống nước pha Electrotyle hoặc Vitamine C, chỉ cho gà ăn tấm nấu hoặc tấm, bắp nhuyễn ngâm sau khi gà nở ít nhất là 12 giờ, tiếp tục cho ăn uống như thế đến 2 ngày. Sang ngày thứ 3 thì pha với lượng tăng dần thức ăn công nghiệp hoặc tự trộn phụ phế phẩm.

Trộn thuốc cầu trùng vào trong thức ăn cho gà từ ngày thứ 7 trở đi, dùng Rigecoccin 1 gr/10 kg thức ăn (hoặc dùng Sulfamid trộn tỷ lệ 5%).Thay giấy lót đáy chuồng và dọn phân mỗi ngày sạch sẽ.

Rửa máng ăn, máng uống sạch sẽ, quan sát tình trạng ăn uống đi đứng của gà, nếu thấy con nào buồn bã, ủ rủ cần cách ly ngay để theo dõi. Dùng bóng đèn tròn 75W úm cho 1m2 chuồng có che chắn để giữ nhiệt, tùy theo thời tiết mà tăng giảm lượng nhiệt bằng cách nâng hoặc hạ độ cao của bóng đèn.

Quan sát thấy nếu gà nằm tụ quanh bóng đèn là gà bị lạnh, tản xa bóng đèn là nóng, nằm tụ ở góc chuồng là bị gió lùa và gà đi lại ăn uống tự do là nhiệt độ thích hợp.Thắp sáng suốt đêm cho gà trong giai đoạn úm để phòng chuột, mèo và để gà ăn nhiều thức ăn hơn. Thường xuyên quan sát biểu hiện của đàn gà để kịp xử lý những bất thường xảy ra. Khi thời tiết thay đổi nên cho gà uống nước pha Electrolyte hoặc Vitamine C.

Do tập tính của gà thường uống nước cùng lúc với ăn, nên đặt máng ăn và máng uống cạnh nhau để gà được uống nước đầy đủ mà không uống nước dơ bẩn trong vườn.

Nếu là gà nuôi thịt thì không cần cắt mỏ. Đối với gà đẻ để giảm hiện tượng cắn mổ nhau thì nên cắt mỏ (chỉ cắt phần sừng của mỏ) vào tuần 6-7. Không nuôi nhiều cở gà trong 1 chuồng, trước khi nuôi đợt mới cần phải sát trùng toàn bộ chuồng trại, dụng cụ.

Gà là một trong số con vật nhạy cảm, nên tuyệt đối không cho gà ăn thức ăn bị ôi mốc, nhiễm nấm, thối rửa.

Có thể sử dụng thức ăn công nghiệp hoặc tận dụng các phụ phế phẩm công nông nghiệp, sao cho đảm bảo các thành phần: Năng lượng, đạm, khoáng và vitamine. Khống chế lượng thức ăn và đảm bảo chất lượng thức ăn đối với gà hậu bị để gà không bị mập mỡ làm giảm sản lượng trứng.

Đối với gà thả vườn thì vấn đề khoáng và vitamine không quan trọng bằng gà nuôi nhốt, vì chúng sẽ tự tìm kiếm theo nhu cầu của cơ thể.

Sau giai đoạn úm có thể cho gà ăn thêm rau xanh. Nên nuôi thêm trùn đất và giòi là nguồn cung cấp đạm dồi dào cho gà.

Ngày đầu tiên chỉ cho gà uống nước, ăn tấm hoặc bắp nhuyễn. Thức ăn mỗi lần rải một ít để thức ăn luôn thơm ngon kích thích tính thèm ăn của gà. Những ngày kế tiếp tập dần cho gà ăn sang thức ăn công nghiệp. Cho gà ăn nhiều bữa trong ngày, ăn tự do.

Nếu sử dụng máng treo để cho gà phải thường xuyên theo dõi điều chỉnh độ cao của máng để gà ăn một cách thoải mái và tránh rơi vãi thức ăn.

Nước uống phải sạch và đầy đủ cho gà uống, gà sống lâu hơn nếu thiếu thức ăn hơn thiếu nước.

Vệ sinh phòng bệnh:

Thức ăn tốt.

Nước sạch.

Con giống có khả năng chống đỡ với bệnh tật cao.

Chuồng nuôi sạch.

Quanh chuồng nuôi phải phát quang.

Thực hiện tốt qui trình thú y về vệ sinh phòng bệnh.

Phòng bằng Vaccine:

Chỉ dùng khi đàn gia cầm khỏe.

Lắc kỹ vaccine trước và trong khi dùng.

Vaccine mở ra chỉ sử dụng trong ngày, dư phải hủy bỏ.

Dùng vitamin để tăng bồi dưỡng cho gia cầm.

Phòng bằng thuốc:

Bệnh ở đường tiêu hóa: Oxyteracilin, chloramphenicol…

Bệnh đường hô hấp: Tylosin, Tiamulin,…

Phòng một số bệnh:

1 ngày, bệnh Marek, Rumboro, dịch tả, phương thức: nhúng ngập mũi.

10 ngày, bệnh Gumboro, phương thức: nhỏ mũi.

10 ngày, bệnh đậu, phương thức: xuyên da cánh.

21 ngày, bệnh dịch tả, phương thức: nhỏ mũi, uống.

28 ngày, bệnh Gumboro, phương thức: nhỏ mũi, uống.

56 ngày, bệnh dịch tả, phương thức: uống.

105 ngày, bệnh CRD, phương thức: chích bắp.

Bệnh cầu trùng:

Nguyên nhân:

Bệnh lan truyền do gà ăn phải thức ăn, uống nước có lẫn các noãn bào. Bệnh dễ lây truyền từ chuồng này sang chuồng khác, nơi này sang nơi khác do người ta, súc vật… vô tình mang các noãn bào này đi xa. Tốc độ sinh sản nhanh của các cầu trùng khiến bệnh dễ bộc phát.

Bệnh cầu trùng thường làm tăng tỷ lệ tử vong cho gà nhỏ, gà phát triển chậm, yếu, dễ bị bội nhiễm các bệnh khác.

Mức độ gây bệnh tùy thuộc vào phương thức nuôi, nuôi trên sàn lưới ít mắc bệnh hơn nuôi trên nền.

Triệu chứng: Gà ủ rũ, xù lông, chậm chạp, phân đỏ hoặc sáp nhiều khi có máu tươi. Gà đẻ vỏ trứng mỏng, tỷ lệ đẻ giảm.

Bệnh tích: Manh tràng sưng to, chân đầy máu. Ruột sưng to. Trong đường tiêu hóa có dịch nhầy và máu.

Phòng bệnh:

Vệ sinh phòng bệnh chặt chẽ, đặc biệt không để nền chuồng, chất đọng làm chuồng ẩm ướt.

Dùng thuốc trộn vào thức ăn hay pha nước uống cho gà.

Sử dụng một trong các loại thuốc sau (dùng trong 3 ngày): Anticoc 1gr/1 lít nước, Baycoc 1ml/ 1 lít nước.

Trị bệnh: Tăng liều gấp đôi liều phòng

Bệnh thương hàn (Salmonellosis):

Nguyên nhân: Do vi khuẩn gây ra, bệnh có thể truyền trực tiếp từ gà mẹ sang gà con và cũng có thể nhiễm gián tiếp qua thức ăn, nước uống bị nhiễm mầm bệnh.

Triệu chứng: Gà ủ rũ, phân trắng loãng, hôi thối. Gà đẻ trứng giảm, trứng méo mó, mào tái nhợt nhạt hoặc teo.

Bệnh tích:

Gà con: Gan sưng, có điểm hoại tử trắng, niêm mạc ruột viêm loét lan tràn.

Gà đẻ: Gan có điểm hoại tử trắng, túi mật sưng to, buồng trứng đen tím, trứng non dị hình méo mó.

Phòng bệnh: Bằng các biện pháp vệ sinh tổng hợp. Có thể dùng kháng sinh để phòng bệnh:

Oxytetracyclin: 50-80 mg /gà/ngày, dùng trong 5 ngày.

Chloramphenical: 1 gr/5-10 lít nước, dùng trong 2-3 ngày.

Trị bệnh: Tăng liều gấp đôi so với liều phòng bệnh.

Bệnh dịch tả (Newcastle disease):

Nguyên nhân: Bệnh do virus gây, lây lan mạnh. Chủ yếu lây qua đường tiêu hóa, tuy nhiên bệnh cũng có thể lây qua dụng cụ chăn nuôi. Gà mọi lứa tuổi đều mắc bệnh.

Triệu chứng: Thường biểu hiện ở 2 thể: cấp tính và mãn tính.

Thể cấp tính:

Bệnh xuất hiện đột ngột, gà chết nhanh không biểu hiện rõ triệu chứng. Thường rụt cổ, ngoẹo đầu vào cánh, ủ rũ, nhắm mắt mê man bất tỉnh, sau đó chết.

Khó thở, nhịp thở tăng, hắt hơi (con vật há mồm, vươn cổ thở).

Tiêu chảy phân màu xanh – trắng, diều căng đầy hơi.

Một số con chảy dịch nhờn ở mắt, mũi. Tích, mào tím xanh.

Nếu sau 4-5 ngày gà không chết, sẽ xuất hiện triệu chứng thần kinh: Gà vận động tròn theo một phía, đi đứng không vững.

Gà giảm đẻ, vỏ trứng mềm.Tỷ lệ chết từ 50-90%.

Thể mãn tính: Những gà bị bệnh kéo dài sẽ chuyển sang thể mãn tính. Triệu chứng chủ yếu ở đường hô hấp, thở khò khè, kém ăn, giảm đẻ…. Gà trở thành vật mang trùng. Tỷ lệ chết 10%.

Bệnh tích: Biến đổi tùy thuộc vào thời gian kéo dài bệnh, lứa tuổi và độc lực của virus. Dạ dày tuyến xuất huyết, có dịch nhầy ở ruột già.

Phòng bệnh: Chủ yếu là bằng vaccine.

Trị bệnh: Dùng các thuốc tăng sức đề kháng: Vitamix, vit-plus,…

Bệnh Gumboro:

Nguyên nhân: Do virus. Gà thường mắc bệnh ở 4-8 tuần tuổi.

Triệu chứng:

Phân lúc đầu loãng, trắng, nhớt nhầy, sau loãng nâu.

Gà sút nhanh, run rẩy.

Tỷ lệ nhiễm bệnh rất nhanh: 2-5 ngày toàn đàn bị nhiễm.

Tỷ lệ chết: 10-30%.

Gà thịt thường phát bệnh sớm hơn (ở giai đoạn 20-40 ngày).

Bệnh tích:

Kỹ Thuật Nuôi Cá Trê Vàng Lai

Cá trê vàng lai là kết quả của lai giống bằng phương pháp sinh sản nhân tạo giữa cá trê phi và cá trê vàng.

Cá trê vàng lai có ngoại hình tương tự ,cá trê vàng, da trơn nhẵn, đầu bẹp, thân hình trụ, dẹp ở phía đuôi. Thân có màu vàng xám hoặc nâu vàng xám, phần bụng màu vàng nhạt, trên thân lốm đốm nhiều bông cẩm thạch và nhiều chấm trắng nhỏ theo chiều đứng ( thẳng góc với thân cá ).

Cá trê vàng lai rất mau lớn, trong điều kiện nuôi với mật độ thích hợp thức ăn đầy đủ, sau 3-4 tháng nuôi cá sẽ đạt trọng lượng trung bình từ 150-200g/con. Cá sống trong môi trường nước hơi phèn và trong điều kiện nước hơi lợ ( độ mặn < 5 0/00 ). cá phát triển tốt trong môi trường nước có độ pH trong khoảng từ 5,5-8,0. Do cá có cơ quan hô hấp phụ nên sống được trong ao, đìa nước tù, chịu đựng được cả những khi hàm lượng oxy trong nước xuống thấp ( 1-2mg/l ).

Cá trê vàng lai hoạt động, bơi lội, ăn mạnh vào buổi chiều tối hoặc ban đêm, lúc trời mờ sáng, vì vậy việc kéo lưới thu hoạch cá ( cá giống và thịt ) nếu thực hiện vào những thời gian kể trên sẽ đạt hiệu quả cao.

Mùa vụ thả nuôi thường kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10 âm lịch hàng năm.

II. Kỹ thuật nuôi cá thương phẩm

1. Chuẩn bị ao nuôi

Ao nuôi có diện tích từ 1.000 – 3.000m2 sẽ thuận tiện cho việc cho ăn, chăm sóc và thu hoạch. Nếu là ao cũ: vét bùn đáy ao, lấp hang hốc, phát quang bụi rậm, phơi đáy ao 2-3 ngày, bón vôi từ 30-50kg/1.000m2 để diệt tạp và điều chỉnh độ pH của nước ao. Bón lót phân chuồng với liều lượng 100-150kg phân/1.000m2. Lấy nước qua lưới lọc vào ao để ngăn ngừa cá dữ, địch hại theo vào trong ao.

Sau 5-7 ngày có thể thả cá vào ao nuôi được. Mực nước ban đầu lấy vào khoảng 1m, sẽ được tăng dần lên sau 1 tháng nuôi đến khi đạt độ sâu 1,2-1,5m.

Nếu là ao mới đào: bón vôi với lượng từ 70-100kg/1.000m2 để giữ cho độ pH của nước ao từ 6-7,5 là tốt nhất.2. Chọn cá giống

Chọn cỡ cá đồng đều, khỏe mạnh, không bị xây xát, không bị bệnh, bơi lội nhanh nhẹn, đánh móng mạnh. Nếu ao không bị rò rỉ, có thể rút cạn nước và diệt tạp triệt để thì phải thả cá cỡ 5-6cm hoặc cá lứa ( 10-12 cm ), nhằm giảm được tỉ lệ hao hụt.

3. Mật độ thả

Nuôi đơn

Cỡ cá (cm) Mật độ thả (con/m2) Thời gian bắt đầu thu hoạch

3 – 4 60 – 70 Sau 3 tháng nuôi 4 – 6 40 – 50 Sau 3 tháng nuôi 5 – 7 30 – 40 Sau 3 tháng nuôi 10 -12 20 – 30 Sau 2,5 tháng nuôiNuôi ghép

Mục đích là tận dụng hết thức ăn trong ao nuôi, có thể thả ghép với các loại cá sau: rô phi, chép, trắm cỏ, trôi. Mật độ thả cho từng cá như sau:

Loại cá Cỡ cá (cm) Mật độ thả (con/m2) Thời gian bắt đầu thu hoạch

Trê vàng lai 4 – 6 10 Sau 3 tháng (=250g/con) Trôi 6 – 8 5 Sau 6 tháng (=250g/con) Chép 6 – 8 3 Sau 6 tháng (=300g/con) Rô phi 6 – 8 10 Sau 4 tháng (=200g/con) Trắm 6 – 8 1 – 2 Sau 8 tháng (=500g/con)

Trong thời gian này thời gian thu hoạch sẽ thay đổi theo loại cá, tốc độ lớn, kích cỡ thương phẩm được thị trường ưa chuộng. Như vậy sau thời gian nuôi 3 tháng sẽ thu hoạch và thả bù cá trê vàng lai với kích cỡ lớn hơn, thường là 10 – 12cm hoặc 12 – 15cm, thả bù cá rô phi cỡ 8 – 10cm sau khi kéo lưới thu hoạch đợt 1.

4. Thức ăn nuôi cá và chăm sóc

Cá trê vàng lai ăn tạp, rất háu ăn, có tập tính ăn gần như cá trê vàng. Thức ăn nuôi cá thường gồm các loại phụ phế phẩm của các nhà máy đông lạnh như đầu vỏ tôm, da ruột mực, đầu lòng cá, ruột sò điệp… cám thức ăn gia súc, cám gạo, bắp xay, con ruốc, cá phân ( xay ).

Ngoài ra để giúp tăng trưởng nhanh, ít bệnh trong quá trinh nuôi cần định kỳ bổ sung premix vitamin ( loại dùng cho heo thịt ) 1 tuần 1 lần với lượng 1 – 2% của tổng lượng thức ăn cho ăn trong ngày.

Trong hai tuần đầu khi mới thả cá còn nhỏ nên băm thức ăn để vừa với miệng cá.

Bắp xay nên ngâm nước cho nở khoảng 15 – 20 phút trước khi nấu với nước sôi. Sau khi nấu chính trộn với cám khô theo tỉ lệ 1/1 rồi trộn tiếp với con ruốc hoặc cá phân.

Nếu cho ăn thức ăn tươi ( đầu tôm, lòng ruột cá… ) lượng thức ăn cho ăn trong ngày bằng 10 -15% tổng trọng lượng cá dự đoán dưới ao. Nếu dùng thức ăn tinh như cám, bắp… lượng thức ăn cho cá ăn trong ngày bằng 5 – 7% trọng lượng cá dự đoán. Trường hợp nuôi ghép thì nên dùng kết hợp thức ăn tinh với thức ăn tươi theo tỉ lệ 1/1. Nếu cá ghép trong ao đã lớn thì có thể cho cá ăn bắp hột ( xay thô ) ngâm nước mà không cần nấu chín.

Nếu cho ăn ở những vị trí cố định trong ao, thường xuyên phải theo dõi và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Tránh trường hợp cho ăn quá dư thừa làm thối bẩn nước ao tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển.

Trong thời gian nuôi cần theo dõi hoạt động của cá, màu nước trong ao. Sau 1 tháng đầu, cá tương đối lớn, có thể định kỳ lấy nước vào trong ao, cứ 5 – 7 ngày 1 lần thay khoảng 30% nước trong ao. Sử dụng nhiều thức ăn tươi thì cần chú ý thay nước thường xuyên hơn.

5. Một số bệnh5.1 Một số bệnh trên cá hương, cá giống

Ương cá từ cá bột lên cá hương, cá giống là giai đoạn rất quan trọng. Ở giai đoạn này da cá mỏng, rất nhạy cảm với với sự thay đổi của môi trường bên ngoài nên cá dễ bị nhiễm bệnh, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng, có khi gây chết hàng loạt.

Bệnh trắng mình

* Dấu hiệu: Thân cá có nhiều mảng trắng, cá bị tuột nhớt, râu cong quặp cá treo thân thẳng đứng với mặt nước hoặc bơi lội lờ đờ, chết rất nhanh với số lượng lớn. Bệnh có thể xảy ra ở cá bột cỡ 5 – 7 ngày tuổi, cỡ cá giống lớn 6 – 8cm vẫn có thể nhiễm bệnh này.* nguyên nhân gây bệnh: Do vi khuẩn Flexibater columnaris, bệnh thường xảy ra ở các bể ương với mật độ dày, chất lượng nước xấu, nước bị thối bẩn do thay nước không thường xuyên. Vi khuẩn xâm nhập các cơ quan nội tạng của cá, hủy hoại mang và các tế bào ở da cá làm cá khó thở, gây chết. Ở bệnh này cùng với sự xâm nhập của vi khuẩn, nấm và nguyên sinh động vật gây bệnh cũng đồng thời xâm nhập làm cá chết rất nhanh.* cách xử lý: Trong bề xi măng hoặc bể bạt dùng Oxytetracyline với liều lượng 10 – 20ppm kết hợp với Formalin 25 ppm ( 25ml/1m3 nước ). hoặc dùng Oxytetracyline với liều lượng 10 – 20ppm kết hợp với muối ăn.

6. Thu hoạch

Sau 2 tháng đến 3 tháng nuôi cá sẽ đạt kích cỡ thương phẩm ( 150 – 250g/con ). Lúc này hình dáng bên ngoài của cá sẽ rất giống cá trê vàng ( chỉ khác ở chỗ u lồi xương chẩm ). Thu hoạch đợt 1 xong sẽ tiếp tục cho ăn tích cực, khoảng 10 – 15 ngày sau sẽ thu hoạch đợt 2, thường ở đợt này lượng cá thu hoạch sẽ được nhiều hơn và tương đối đồng đều về kích cỡ hơn so với đợt 1. Nếu trong ao vẫn còn 1 số cá chưa đạt quy cỡ thì sẽ nuôi vỗ tiếp tục 2 tuần nữa và thu hoạch toàn bộ. Nên thả cá giống ngay từ đầu vụ ( tháng 3 – 4 âm lịch ) để đến thời điểm thu hoạch vào tháng 6, 7, 8 âm lịch cá thịt bán được giá cao, chi phí đầu tư con giống rẻ, dễ nuôi hơn lúc cuối vụ ( do thời tiết cuối vụ thường lạnh, cá dễ bị bệnh ).

Sau khi trừ chi phí cải tạo ao, con giống, thức ăn, công chắm sóc bảo vệ… người nuôi thường có thể được lãi 40 – 45% so với tiền vốn bỏ ra ban đầu. Thu hoạch cá vào những mùa đụng cá đồng ( thả cá vào giữa và cuối vụ ) thì tiền lãi thu được sẽ thấp hơn do giá con giống cao, giá cá thịt rẻ, thường chỉ lãi 20 – 25% so với tiền vốn ban đầu.

HIỆN NAY TRẠI GIỐNG CỦA CHÚNG TÔI CÓ CUNG CẤP ĐẦY ĐỦ CÁ BỘT VÀ KÍCH CỠ CON GIỐNG. BÀ CON NÀO CÓ NHU CẦU NUÔI THẢ XIN VUI LÒNG LIÊN HỆ VỚI CHÚNG TÔI

RẤT HÂN HẠNH ĐƯỢC PHỤC VỤ BÀ CON!

Kỹ Thuật Nuôi Gà Mía Nhanh Lớn Cực Hiệu Quả

Gà mía là là loài gà lai có nguồn gốc nội địa Việt Nam. Đây là loại gà sinh trưởng nhanh, thích nghi và phát triển tốt. Chăn nuôi gà mía đang là một ngành chăn nuôi đem lại lợi ích kinh tế cao. Tuy nhiên kỹ thuật nuôi gà mía nhanh lớn không phải ai cũng biết.

Gà mía là gà gì?

Từ năm 1999 các nhà khoa học đã phát hiện ra bộ gen quý của loài gà mía bản địa này. Sau đó, gà mía được đưa vào danh sách các loài vật cần bảo tồn. Từ đó tới nay gà mía được chăn nuôi, nhân rộng quy mô. Theo thống kê năm 2018 thì gà mía phân bố chủ yếu ở Sơn Tây Hà Nội đạt sản lượng 80 000 con và hơn 180 tấn mỗi năm.

Gà mía là loại gà bản địa, nên có nhiều đặc điểm thích nghi tốt với khí hậu Việt Nam. Khi trưởng thành gà mái có lông màu lá chuối khô, gà trống có lông màu mật rất đặc trưng mà không loài gà nào có được.

Nhiều người hay nhầm lẫn gà mía với gà Lạc Thủy Hòa Bình. Tuy nhiên, gà mía có màu da vàng đỏ. Ở gà mái đẻ sẽ có yếm lườn. Một đặc điểm nữa để phân biệt gà mía với hầu hết các loại gà khác là có sọc đỏ ở hai chân.

Thông thường, gà mía sẽ được xuất chuồng sau khoảng bốn tới năm tháng chăn nuôi. Trọng lượng khi làm thịt sẽ đạt khoảng từ 3 tới 4kg tùy loại gà trống gà mái. Thịt gà mía thì thơm, ngon, dai không bã hay bột như gà công nghiệp.

Giá gà đẻ sau khi nuôi khoảng 7 tới 8 tháng. Trứng gà tương đối nhỏ nhắn đạt trọng lượng trung bình từ 30-50g tùy theo điều kiện chăn nuôi. Tốc độ sinh sản của gà mía không cao, đạt trung bình khoảng 55 quả trứng mỗi năm.

Cách chọn gà giống

Chọn gà giống mía tốt là điều rất quan trọng để chăn nuôi gà mía đạt năng suất cao. Bạn nên chọn các con gà mía con có lông trắng đục, mắt tinh nhanh, nhanh nhẹn. Đồng thời nên chọn các con có kích thước đồng đều.

Không nên chọn những con gà con chậm chạp, lông xù, có dấu hiệu dù hay bị bệnh. Những con gà này sẽ phát triển kém, dẫn tới hiệu quả kinh tế kém. Ngoài ra, bạn nên chọn những nơi cung cấp gà giống chuẩn có uy tín tránh gà không đúng giống kém chất lượng.

Gà con nên được mua từ một nguồn có tiêm vaccin đầy đủ. Tránh việc mua gà giống từ nhiều nguồn khác nhau, khiến chất lượng không đồng đều. Việc gà giống từ nhiều nguồn cũng khiến khó khăn hơn trong việc kiểm soát dịch bệnh cho gà con sau này.

Những điều cần chuẩn bị khi nuôi gà mía

Gà mía khác với các loại gà công nghiệp. Chúng sống ngoài tự nhiên trong môi trường rộng lớn do đó trong chăn nuôi thường được nuôi theo phương thức chăn thả tại các khu vực đồi núi.

Chúng cần có không gian di chuyển. Do đó vườn thả gà là một trong những yếu tố quan trọng. Ngoài ra khi nuôi gà cần có thêm chuồng để cho gà ngủ, tránh mưa, nắng và tạo khu vực ăn uống cho gà.

Chuồng nuôi gà mía

Chuồng gà phải đảm bảo thoáng mát và sạch sẽ. Hướng chuồng nên là hướng Nam hoặc Đông Nam. Tránh làm chuồng gà hướng Đông hoặc Đông Bắc bởi vì ông cha ta có câu: “Chuồng gà hướng Đông, cái lông chẳng còn”

Sở dĩ như vậy là bởi vì nước ta là nước gió mùa. Vào mùa đông gió lạnh thường thổi theo hướng Đông Bắc sẽ rất ảnh hưởng tới sự phát triển của gà. Gà mía là loại có khả chịu lạnh khá tốt tuy nhiên nếu thời tiết quá lạnh cũng sẽ ảnh hưởng tới tiến độ phát triển của gà.

Trong khi đó mùa hè ở nước ta gió Lào nóng thường thổi theo hướng Tây. Do đó bạn cũng nên tránh hướng này khi làm chuồng gà để đảm bảo gà không bị quá nóng vào những ngày mùa hè.

Ngoài ra, gà mía có tập tính ngủ ở trên cao do đó khi chăn nuôi và làm chuồng nên tiến hành thiết kế các dàn đậu trong chuồng. Dàn đậu này có thể bằng tre, gỗ, sắt hoặc bê tông đều được.

Tránh các dàn đậu trơn tròn khiến gà không đứng được. Các dàn đậu nên thiết kế cách mặt đất từ nửa mét trở lên và cách nhau từ 30 tới 40 cm. Tránh cho gà tranh chấp hay mổ nhau khi dàn đậu quá gần.

Ngoài ra nếu chăn nuôi gà mía đẻ trứng thì cần tạo các ổ đẻ cho gà mái. Các ổ đẻ nên ở vị trí thoáng mát và cách mặt đất ít nhất từ nửa mét trở lên. Một ổ đẻ có thể ghép từ 5 tới 10 gà mái.

Vườn thả cần được quây bằng lưới cao 2.5 mét. Để đảm bảo gà không thể bay ra ngoài gây thất thoát. Lưới thì có thể là lưới sắt hoặc lưới nhựa, lưới tre gỗ, đều được. Mỗi loại lưới sẽ có những ưu nhược điểm riêng.

Lưới sắt sẽ tạo độ chắc chắn cho vườn nhưng chi phí đầu tư ban đầu sẽ tương đối lớn. Nhưng lưới nhựa, lưới gỗ, hay lưới bằng tre nứa thì tương đối rẻ tiền. Tuy nhiên chúng thường kém bền và nhanh hỏng theo thời gian.

Vườn thả gà nên được quét dọn thường xuyên. Đặc biệt là những nơi có nhiều lá sẽ rất dễ tạo môi trường cho vi sinh vật phát triển và gây bệnh. Ngoài ra cần san bằng các hố trũng thường xuyên để tránh ứ đọng nước.

Kỹ thuật chăm sóc gà nuôi gà mía

Các giai đoạn nuôi gà mía

Chăm sóc gà mía thì tương tự như nhiều loài gà khác cần chia làm ba giai đoạn giai đoạn úm, giai đoạn phòng bị và giai đoạn để trứng sinh sản. Tuy nhiên nếu chăn nuôi gà lấy thịt bạn chỉ cần phát triển qua hai giai đoạn. Nếu bạn muốn nhân giống và cho gà sinh sản thì mới cần chuyển sang giai đoạn thứ ba.

Giai đoạn úm

Giai đoạn đầu là từ 1 tới 10 tuần tuổi. Hay còn gọi là giai đoạn úm. Giai đoạn này cần nuôi nhốt gà hoàn toàn.

Nên cho gà ăn nhiều bữa mỗi bữa với lượng vừa phải để kích thích gà ăn nhiều hơn. Nên tránh dùng máng treo vì gà còn nhỏ sẽ khó với tới để ăn được hoặc sẽ rất dễ rơi vãi. Ngoài ra giai đoạn này bạn nên bổ sung thêm khoáng và vitamin E trộn vào thức ăn cho gà.

Giai đoạn phòng bị

Kết thúc giai đoạn úm sẽ chuyển sang giai đoạn phòng bị. Bạn chọn các con gà tốt, sinh trưởng phát triển mạnh, tách riêng các con gà có dấu hiệu bị bệnh, hay kém phát triển. Giai đoạn này sẽ tiến hành nuôi trong 10 tuần.

Giai đoạn này, gà nên được nuôi theo phương thức bán chăn thả. Các máng ăn và máng nước nên được bố trí với mật độ thưa hơn giai đoạn úm. Đồng thời có thể sử dụng dạng máng treo và máng đặt đều được.

Thức ăn cho gà mía

Thức ăn cho gà nên là thức ăn tự phối trộn có nguồn gốc nông nghiệp. Bao gồm ngô, bột đậu tương, lúa mì, cám gạo,…được phối trộn theo tỉ lệ nhất định phù hợp với từng giai đoạn phát triển của gà. Tránh cho chúng ăn chỉ một loại cảm sẽ không cung cấp đủ dinh dưỡng cho gà phát triển.

Nước uống cho gà mía

Nước cho gà uống nên là nước sinh hoạt sạch. Tránh cho gà uống các nguồn nước không đảm bảo các nguồn nước kém vệ sinh hay bị ô nhiễm. Các máng nước nên đặt xen kẽ các máng ăn. Máng nước nên được vệ sinh và thay nước thường xuyên hai lần mỗi ngày.

Vệ sinh chuồng trại

Trong suốt quá trình nuôi gà, việc vệ sinh chuồng trại và các thiết bị chăn nuôi như máng ăn máng uống cần được tiến hành thường xuyên. Định kì phun thuốc sát trùng để diệt ve, mòng, muỗi cho chuồng trại để tránh sự sinh sôi của các tác nhân gây bệnh này đặc biệt là mùa hè.

Phòng bệnh trong chăn nuôi gà mía

Tương tự như chăn nuôi lợn, vịt, trâu, bò,… hay bất kì loài vật nuôi nào thì việc phòng bệnh là rất quan trọng. Bạn nên tiến hành tiêm vaccine phòng bệnh cho gà mía theo đúng hướng dẫn của cơ quan y tế địa phương như cúm gia cầm, newcastle, đậu, tụ huyết …

Giá của gà mía

Hiện nay gà mía được bán tương đối phổ biến trên thị trường với giá dao động từ 120k tới 140k/kg. Gà mía giống cũng được cung cấp phổ biến với giá từ 10k tới 20k cho mỗi con gà. Trong khi chi phí nuôi một con gà cho đến khi trưởng thành là khoảng 80k. Nên lãi trên một con gà mía đạt mức ổn.

Theo: Biển Lặng

Bạn đang đọc nội dung bài viết Kỹ Thuật Nuôi Gà Mía Lai trên website Ngayhoimuanhagiagoc.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!